Tận đến những năm 70-80 của thế kỷ XX, nhân loại mới  nhận thức rõ hơn vai trò trung tâm của phụ nữ trong tình yêu và hôn nhân, vậy mà ở thế kỷ XVIII Nguyễn Du thông qua quá trình tái hiện tâm lý nhân vật Thúy Kiều trong mối tình với Kim Trọng đã xây dựng một hình mẫu phụ nữ chủ động và bản lĩnh trong lựa chọn và ứng xử trong tình yêu.
    Từ trong lòng xã hội phong kiến, khi mà quan điểm Nho giáo đang thống soái với những gọng kìm tàn bạo siết chặt số phận người phụ nữ, thì Nguyễn Du đứng trên lập trường của chủ nghĩa nhân văn, tiến bộ đã xác quyết khả năng phi thường của nữ giới trên hành trình đi tìm giá trị bản thể. Với việc tự do lựa chọn và chủ động kiếm tìm tình yêu, hạnh phúc đích thực cho cuộc đời mình, nhân vật Thúy Kiều trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du đã đạt đến tự do với tư cách là một chủ thể đích thực chứ không phải như là tha nhân trong mối quan hệ với nam giới. Có nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra những cách lý giải khác nhau về tình yêu trong "Truyện Kiều". Trong đó, từ góc nhìn nữ quyền luận, PGS.TS Cao Thị Hồng khẳng định Đại thi hào Nguyễn Du đã xây dựng nhân vật Thúy Kiều như một điển hình phụ nữ vượt lên quan niệm và lễ giáo phong kiến để kiếm tìm tình yêu đích thực.
    Nhân tướng học phổ biến thời trung đại, trong giới có học và dân gian. Một nhà Nho được coi là tài tử, do vậy, phải có hiểu biết về nhân tướng học. Nguyễn Du không chỉ thông hiểu các nguồn tư tưởng, tín ngưỡng uyên thâm, phức tạp, như Nho học, Đạo giáo,... mà ông còn sở hữu cả nhân tướng học và dùng nó như một phương thức để tri nhận, thụ lĩnh nhân sinh và cuộc đời.Theo các thống kê, trong “Truyện Kiều”, Đại thi hào Nguyễn Du đã khảo sát một cách sánh sỏi, với sự am hiểu sâu sắc các bộ vị, cung tướng quan trọng trong nhân tướng học. Ông kết hợp nhân tướng học bác học và cách xem tướng của dân gian.
    Với tư duy sâu sắc cũng như tài năng ngôn ngữ bậc thầy, Đại thi hào Nguyễn Du đã gói ghém một cách thành công và thâm thúy nhiều quan niệm và giá trị văn hóa trong tác phẩm "Truyện Kiều". Một trong số đó là vấn đề đoán định tính cách, nội tâm và số phận nhân vật thông qua các biểu hiện bề ngoài, nói theo quan niệm phương Đông là nhân tướng học. Sinh thời, Đại thi hào Nguyễn Du được biết đến là một người thông thạo nhân tướng học. Trong thơ chữ Hán, ông nói về tướng của mình: "Thiên địa dữ nhân truân cốt tướng" (Trời đất cho người cái cốt tướng gian truân). Ông đã sử dụng hiểu biết về nhân tướng như một thủ pháp để miêu tả tính cách, tâm địa và dự báo số phận nhân sinh. Nói cách khác, Nguyễn Du nhìn nhân sinh bằng con mắt của tướng thuật. "Truyện Kiều" được dân gian, độc giả các thế hệ ưa chuộng còn bởi vì được sáng tạo bằng tư duy nhân tướng học. Đặc thù này làm cho tác phẩm khác xa với cuốn tiểu thuyết nguồn của Thanh Tâm Tài Nhân.
    Sang thời Trần, văn học đã có sự phát triển vượt bậc. Bên cạnh các tác giả là thiền sư, còn đông đảo đội ngũ các tác giả là tôn thất nhà Trần cùng các trí thức Nho học. Mặc dù vẫn có sự hiện diện của Tam giáo (Nho, Phật, Đạo) nhưng Phật giáo không còn chi phối nhiều trong sáng tác của các thiền sư như thời Lý. Sự phát triển của kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là sau ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông khiến diện mạo văn học thời Trần đã rất phong phú, đa dạng với những thành tựu vượt bậc. Về đội ngũ sáng tác nhà Trần có thể kể đến: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Quốc Tuấn, Chu Văn An, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Huyền Quang, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn...
    Bước sang tuổi thiếu niên nhi đồng, giai đoạn bắt đầu khám phá, tìm hiểu cuộc sống xung quanh với những giao tiếp xã hội đầu đời việc tìm chúng bạn cùng trang lứa chơi đùa, nghịch ngợm là một nhu cầu bản năng sinh học của trẻ em. Và Đồng dao là thể loại âm nhạc gắn bó với đoạn đời này. Cùng là âm nhạc dành cho trẻ nhỏ, nhưng Đồng dao lại hoàn toàn khác với Hát Ru- thể loại mà đối tượng thực hành là người lớn với ý thức về âm điệu, cung bậc rõ rệt. Có thể nói, trẻ em chính là chủ sở hữu đồng dao, tự hát, tự diễn xướng các bài ca trong môi trường sinh hoạt đồng trang lứa.
    Trong nền âm nhạc dân tộc cổ truyền của nước ta, Hát Ru và Đồng dao được xem như hai thể loại âm nhạc dân gian dành riêng cho trẻ nhỏ, gắn bó với giai đoạn đầu của một chu kỳ đời người. Trên thế giới, Hát Ru và Đồng dao dường như là những thể loại không thể thiếu ở hầu khắp các dân tộc. Trong các thể loại âm nhạc dân gian, có lẽ Hát Ru là làn điệu được dùng với tần suất nhiều hơn cả. Bởi lẽ trẻ thơ luôn là đối tượng ưu tiên ở mọi cộng đồng cư trú, hết lớp này đến lớp khác luân phiên chào đời tiếp nối mạch sống dân tộc. Theo đó, ru trẻ ngủ đương nhiên là việc không thể thiếu trong cuộc sống thường ngày. Sớm khuya chiều tối, bất cứ lúc nào cần trẻ ngủ là lại vang lên tiếng Hát Ru. Chính đặc tính liên tục đó của Hát Ru đã khiến làn điệu có được vị trí ấn tượng nhất trong đời sống âm nhạc của một chu kỳ đời người.
    Mỗi dân tộc anh em trên đất nước ta có những bài hát ru khác nhau, đa dạng về nội dung và cách thể hiện. Trong mỗi bài hát ru ẩn chứa hình ảnh, câu chuyện, cách nhìn nhận về đời sống, văn hóa và phẩm chất con người. Ru trẻ nhưng thực chất là truyền vào tâm hồn trẻ những điều tốt đẹp.
    Như chúng ta đã biết, truyện thơ 'Lục Vân Tiên' của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu là tác phẩm được đặc biệt yêu thích ở Nam Bộ. Tác phẩm này đi vào tục ngữ, ca dao, dân ca, trở thành một loại hình diễn xướng đặc biệt: 'Nói thơ Vân Tiên'. Từ đó, đã được tái sinh trong nhiều loại hình văn nghệ khác: Thơ hậu Vân Tiên, thơ nhại Vân Tiên, tranh Vân Tiên, vọng cổ, cải lương, tuồng, điện ảnh... tạo thành một 'trường văn hóa' Lục Vân Tiên.
    Từ lâu truyện thơ “Lục Vân Tiên” của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã được người bình dân, đặc biệt là ở vùng đất Nam Bộ đặc biệt yêu mến. Không chỉ truyền tụng rộng rãi những câu thơ tâm đắc, dân gian xứ sở này còn vận dung, sáng tạo nên những câu ca lấy cảm hứng từ tính cách và số phận các nhân vật trong tác phẩm này.
    Từ lâu, cuộc đời và trước tác của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu đã thành giai thoại, thành nguồn cảm hứng trong văn nghệ dân gian, quần chúng quảng đại ở vùng đất Nam bộ. Tác phẩm quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu – truyện thơ Lục Vân Tiên có âm vang và sức lan tỏa hết sức sâu rộng ở vùng đất này. Không chỉ “trường văn hóa” Lục Vân Tiên, tái sinh trong nhiều loại hình văn nghệ khác: thơ hậu Vân Tiên, thơ nhại Vân Tiên, tranh Vân Tiên, vọng cổ, cải lương, tuồng, điện ảnh… mà nhiều tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng được mến mộ khi ghi đậm dấu ấn phẩm chất và tinh thần của người Nam Bộ trước thời thế và cuộc đời.
    Trong đời sống thường ngày, chúng ta bắt gặp những câu ca dao, tục ngữ có ý nghĩa tương tự, chỉ sai khác một số từ, ngữ. Theo thời gian, những câu dễ đọc, dễ hiểu hơn sẽ trở nên thông dụng. Một câu ca dao có nhiều dị bản cũng là hiện tượng phổ biến. Một phần nguyên do của hiện tượng này cũng do bản sắc, cách diễn đạt, cách nói của từng địa phương, vùng miền. Điều này cũng phản ánh sáng tạo của dân gian, sự gần gũi, thân thuộc của ca dao trong đời sống thường ngày. Bài ca dao “Cổ tay em trắng như ngà” có một số dị bản, chỉ khác nhau một vài từ ngữ. Thạc sỹ Khoa Thị Điển, nguyên Tổ trưởng Tổ Lý luận văn học, thuộc khoa Xã hội trường Cao đẳng Sư phạm (nay là Đại học Đồng Tháp) cho rằng đây là một bài ca dao hay nói về vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống. Tuy nhiên, ở câu kết, hình ảnh đúng phải là “cái khăn” thay vì “cái nón” thì mới hợp lý.
    Lâu nay, “Truyện Kiều” vẫn được coi là di sản văn hóa vô giá của dân tộc ta. Chính vì lòng yêu mến, quý trọng kiệt tác văn học của Đại thi hào Nguyễn Du mà nhiều nhà văn hóa, ngôn ngữ, nhà văn đã phiên âm “Truyện Kiều” ra Quốc ngữ. Công việc này đòi hỏi tuân thủ các quy tắc chính tả để giúp bạn đọc tiếp cận và hiểu rõ hơn nội dung của một truyện thơ dài. Tuy nhiên, tới nay, các bản phiên âm “Truyện Kiều” ra Quốc ngữ chưa nhất quán về quy tắc chính tả, dấu câu, cách trình bày. Chính vì lẽ đó, mới đây Hội Kiều học Việt Nam phối hợp với Hội đồng Gia tộc họ Nguyễn Tiên Điền và Viện Nghiên cứu danh nhân đã tổ chức tọa đàm khoa học về chủ đề “Tìm kiếm phương án tối ưu cho việc trình bày văn bản Quốc ngữ Truyện Kiều”.
    Trong cuộc sống của mỗi con người, điều quý nhất là phải có một nhân cách, phẩm chất tốt. Vẻ đẹp về nhân cách đã được các tác giả dân gian thể hiện qua các câu ca dao rất ngắn gọn, súc tích. Đặc biệt là những câu ca dao thể hiện hình ảnh hoa trái. Khi nhắc đến hoa, quả là nhắc tới hương thơm quyến rũ, vị ngọt nồng nàn, đa sắc, đa hương, đa màu, đa vị. Hoa trong ca dao biểu trưng cho phẩm chất cao quý, cho thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.