Nhìn lại những thành tựu của nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20, trào lưu văn học hiện thực phê phán chiếm một vị trí quan trọng với hàng loạt các tên tuổi như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Bùi Hiển, Nguyên Hồng, Kim Lân, Tam Lang, Nguyễn Đình Lạp…Trong số hàng loạt các cây bút vừa kể tên, Vũ Trọng Phụng nổi lên như một gương mặt thật độc đáo. Ông chỉ sống vỏn vẹn có 27 năm trên dương thế nhưng đã để lại một gia tài sáng tác đáng kinh ngạc gồm hơn 30 truyện ngắn, 9 tiểu thuyết, 9 tập phóng sự, 7 vở kịch cùng 1 bản dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài phê bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa. Chuyên mục Tìm trong kho báu của Ban Văn học Nghệ thuật (VOV6), Đài Tiếng nói Việt Nam xin được dành một chương trình nhiều kỳ để tìm hiểu các di sản văn chương của Vũ Trọng Phụng
Như chúng ta đã biết, tại Kỳ họp Đại hội đồng UNESCO lần thứ 41 (diễn ra tháng 11 năm ngoái tại thủ đô Paris, nước Pháp) đã thông qua danh sách các Danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử niên khóa 2022 – 2023 để UNESCO cùng vinh danh và tham gia kỷ niệm năm sinh/năm mất. Tại kỳ họp này, hồ sơ kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu và kỷ niệm 250 năm ngày sinh, 200 năm ngày mất của Nữ sỹ Hồ Xuân Hương cùng với 58 hồ sơ khác đã được thông qua. Tới ngày 3/12 vừa qua, tại Tp. Vinh, tỉnh Nghệ An, Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam trọng thể tổ chức Lễ vinh danh và kỷ niệm 250 năm sinh, 200 năm mất của nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Nằm trong chuỗi sự kiện trang trọng này, Bộ VH-TT&DL tỉnh Nghệ An cùng phối hợp với Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế: “Nữ sĩ Hồ Xuân Hương - Danh nhân văn hóa và giá trị di sản”. Mời các bạn nghe phản ánh của Thái Dương và Trường Ca - Phóng viên Đài Phát thanh và Truyền hình Nghệ An về hội thảo này:
Trong dòng văn học yêu nước nửa cuối thế kỷ 19 ở nước ta, vùng đất Quảng Ngãi, nơi tiên phong phất cờ khởi nghĩa Cần Vương nổi lên những tên tuổi tác giả với các trước tác đặc sắc để lại. Chương trình hôm nay tập trung soi tỏ những gương mặt ấy, tiếng thơ ấy.
Buổi “Tìm trong kho báu” số trước của Ban VHNT (VOV6) đã khái quát về các nội dung thể hiện trong sáng tác thơ văn của nhà thơ, nhà yêu nước Phan Văn Trị. Tuần này, mời Quý vị và các bạn đi sâu vào một trong ba đề tài chính yếu, đó là thơ bút chiến của cụ Cử Trị. Đây là mảng thơ thể hiện tài năng lẫn tấm lòng của một nhà nho luôn giữ trọn tiết tháo, thẳng thắn phê phán thực trạng hành vi dao động, cộng tác với thực dân Pháp của một bộ phận trí thức thời bấy giờ.
Năm 19 tuổi, nhà thơ, nhà yêu nước Phan Văn Trị thi đậu Cử nhân, cùng khoa với Nguyễn Thông. Sau đó Nguyễn Thông làm quan nhiều nơi, lên đến chức Bố chánh Quảng Ngãi. Về phần Phan Văn Trị, ông chọn cuộc sống thanh đạm, mở lớp dạy học ở làng quê. Tuy rời xa chốn quan trường nhưng tấm lòng Phan Văn Trị vẫn đau đáu trước tình cảnh triều đình nhu nhược, đất nước nguy cơ rơi vào tay thực dân Pháp. Những bài thơ vịnh cảnh, vịnh vật được ông sáng tác nhằm bày tỏ chí hướng, ước muốn giúp đời, cứu dân hoặc để phê phán những người bất tài, hám danh. Đến khi quân Pháp chiếm đóng Nam bộ, ông làm thơ yêu nước, thơ xướng họa có tính chất bút chiến. Có thể nói, thời kỳ nào, Phan Văn Trị cũng dành tâm sức để nói lên sự quan tâm với thế sự, tấm lòng đối với đồng bào, non sông, Tổ quốc
Là nhà hoạt động chính trị, xã hội, nhà giáo dục, nhà thơ, nhà văn nổi tiếng, nhà sử học có ý thức trách nhiệm cao, Nguyễn Thông có những đóng góp rất tích cực cho đất nước ta giai đoạn nửa cuối thế kỷ 19. Cuộc đời của ông xác lập tư thế một nhà nho hành đạo trong thời đại mới, không chỉ theo đuổi lý tưởng khoa cử, trung quân ái quốc mà còn tích cực tham gia vào công cuộc kháng Pháp, đem nhiệt huyết và tài năng ra giúp nước, giúp đời. Và cũng như nhiều nhà nho cùng thời, qua các trước tác, nhà thơ Nguyễn Thông gửi gắm tâm sự cá nhân, đặc biệt là tấm lòng với cố hương:
Ở khía cạnh tri thức, nhà thơ, danh sĩ Nguyễn Thông được đánh giá là một người thầy đáng kính, một người làm quản lý giáo dục có nhiều đóng góp về giáo dục ở vùng đất phương Nam. Ông là người tiếp tục phát huy học phong Nam Bộ - một truyền thống học vấn khởi đầu từ nhà giáo Võ Trường Toản, chú trọng ở nghĩa lý, chứ không trọng từ chương, đề cao đạo lý, chú trọng thực thực tiễn và vị đời. Theo PGS.TS Lê Quang Trường, vì gia cảnh nghèo, đường khoa cử lận đận, bước đầu Nguyễn Thông nhận chức Huấn đạo ở huyện Phong Phú, tỉnh An Giang, bắt đầu con đường làm quan của mình từ chức học quan ở một huyện nhỏ. Trải qua một hành trình dài, bằng chính những trải nghiệm của mình, ông không chỉ mong muốn nối dài học phong trọng thực dụng và vị đời ở Nam Bộ mà còn mong muốn được lan toả trong cả nước nhằm chấn chỉnh hiện tượng tầm chương trích cú sáo rỗng thời bấy giờ:
Trong gần 60 năm cuộc đời, nhà nho Nguyễn Thông thể hiện sự gắn bó mật thiết với đời sống của người dân lao động nơi ông sinh ra, lớn lên và tại chức quan lại. Trong vai trò một trí thức yêu nước, ông đã đi sâu cụ thể vào các mặt của xã hội nhằm hướng tới việc cải thiện đời sống người dân. Năm 1984, cách đây đã gần 40 năm, kỷ niệm 100 năm ngày mất của nhà thơ Nguyễn Thông, trong một bài viết đầy tâm huyết, Giáo sư Nguyễn Lộc đã khẳng định: “Trong suốt cuộc đời long đong vất vả, Nguyễn Thông đã ngày đêm suy nghĩ về đời sống của nhân dân và vận mệnh của Tổ quốc. Tình cảm mãnh liệt này đã thể hiện sâu sắc qua toàn bộ thơ văn của ông. Thơ văn của Nguyễn Thông cũng vì thế là sự phản ánh trung thành của đời sống xã hội và sự kết tinh phong phú tư tưởng xã hội và hành động xã hội của ông”:
Nhà thơ Nguyễn Thông (còn có tên khác là Nguyễn Thới Thông, tự Hy Phần, và nhiều biệt hiệu: Kỳ Xuyên, Độm Am, Đạm Trai) sinh năm 1827 tại phủ Tân An, tỉnh Gia Định, nay là xã Phú Ngãi Trị, huyện Châu Thành, tỉnh Long An. Cụ Nguyễn Thông đỗ cử nhân năm 1849, từng làm quan, giữ nhiều chức vụ như: Án sát Khánh Hòa, Bố Chánh Quảng Ngãi, Bố Chánh Bình Thuận. Cuộc đời làm quan của Nguyễn Thông trải qua nhiều sóng gió, truân chuyên bởi đức tính thẳng ngay, không dối trá nên nhiều kẻ xu nịnh, vu cáo, hãm hại. Cụ mất vào năm 1884, thọ 57 tuổi, được an táng tại phường Phú Hài, TP Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận ngày nay. Về sự nghiệp nghiên cứu, cụ Nguyễn Thông để lại những bộ sử liệu quan trọng là “Khâm định Nhân sự kim giám”, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” và “Việt sử thông giám cương mục khảo lược”. Về sáng tác thơ văn, đến nay, giới nghiên cứu đã sưu tầm được 76 bài thơ, 25 bản văn, 6 bản sớ điều trần của cụ nằm trong các tập: “Độm Am thi văn tập”, “Kỳ Xuyên thi văn sao”, “Kỳ Xuyên công độc”, “Dưỡng chính lục”...
Xã hội phong kiến vốn nhiều định kiến khắt khe đã hạn chế nữ quyền, khiến phụ nữ trở nên yếu thế, bị động, thậm chí bị tước đoạt đi nhiều quyền tự do cơ bản. Thế nhưng, trong bối cảnh ấy, đã có những tiếng thơ của các nhà nho, nhà thơ tiến bộ đòi quyền sống, tôn vinh và trân trọng những nỗ lực và phẩm tính tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam:
Như chúng ta đã biết, kinh thành Thăng Long là nơi ghi dấu những chiến công hiển hách của ba triều đại Lý, Trần, Lê, sau đó tiếp tục là kinh đô của nhà Mạc, nhà Lê Trung hưng. Giai đoạn vàng son ấy kéo dài từ từ đầu thế kỷ 11 đến gần cuối thế kỷ 18. Trong biến thiên lịch sử, từ thời Tây Sơn, Quang Trung Nguyễn Huệ định đô ở Phú Xuân (Huế). Thăng Long chỉ còn là Bắc thành. Kinh đô một thời đã thành cố đô, rồi từ trấn thành thu nhỏ thành tỉnh thành. Đến thế kỷ 19, Thăng Long xưa chính thức mang tên Hà Nội, qua thăng trầm lịch sử là Thủ đô nước Việt ta ngày nay. Tên Thăng Long chỉ còn lại trong kí ức và sử sách. Chính vì hiện diện trong tâm tưởng người nhiều thời, nhiều đời với một vị thế thiêng liêng như vậy nên cảm hứng Thăng Long hoài cổ là mạch nguồn xuyên suốt trong thơ ca, đặc biệt từ giai đoạn cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20.
Từ nhiều đời nay, văn chương luôn gắn bó mật thiết với thế sự, với những vấn đề và chuyển động của xã hội. Trong những giai đoạn mang tính chất bước ngoặt lịch sử, những vang động của thời thế càng được thể hiện sâu sắc, nhiều chiều trong sáng tác thơ văn. Chương trình “Tìm trong kho báu” hôm nay của Ban VHNT (VOV6) đi vào các khuynh hướng văn học yêu nước nửa cuối thế kỷ 19 đặt trong bối cảnh thời đại và dân tộc
Đại thi hào, Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi là một nhà yêu nước, tác giả lớn, cây đại thụ trong trong lịch sử văn học dân tộc ta. Cống hiến của ông với đất nước được thể hiện rõ nét qua cuộc đời và di sản để lại cho hậu thế. Nhân kỷ niệm 580 năm ngày mất của Đại thi hào Nguyễn Trãi (19/09/1442-19/09/2022), chương trình “Tìm trong kho báu” hôm nay của Ban VHNT (VOV6) dành toàn bộ thời lượng để điểm lại những đóng góp lớn lao của ông trong sáng tác thơ ca bằng Quốc âm.
Trong số các Tao đàn ở phương Nam giai đoạn thế kỷ 18, 19, Bạch Mai thi xã là “địa chỉ” sinh hoạt văn thơ thuở hàn vi của nhiều tác giả, sau này trở thành những tên tuổi của dòng văn học yêu nước chống thực dân. Cũng có một bộ phận tác giả có sự phân hóa trong tư tưởng, làm việc trong chính quyền Pháp và tiếng thơ của họ cũng chất chứa nhiều tâm trạng, nỗi niềm. Tôn Thọ Tường là một trong số đó. Cuộc đời nhiều trắc trở và ít nhiều điều tiếng do khuynh hướng chính trị, tuy nhiên, trong sáng tác, Tôn Thọ Tường được đánh giá là cây bút thơ tài hoa. Chương trình hôm nay đi vào những trước tác tiêu biểu của ông.