Quý vị và các bạn thân mến, có một gia đình hạnh phúc là điều mà ai cũng mong muốn. Như thế nào là gia đình hạnh phúc cũng có nhiều quan niệm khác nhau. Có người trọng vật chất nghĩ cứ giàu có dư dả là hạnh phúc, có người trọng tinh thần nghĩ sống yêu thương nhau là hạnh phúc. Với người phụ nữ khi lựa chọn cho mình được một tấm chồng tốt, yêu thương, biết chăm lo cho vợ con thì đó là điều hạnh phúc nhất. Thế nhưng ở nhiều vùng sâu, vùng xa đất nước ta, với phong tục tập quán từ xa xưa thì nhiều người phụ nữ trước khi lấy chồng còn không biết mặt chồng mình ra sao, tình tính anh ta thế nào. Việc hai người có hòa hợp hay không, chồng có yêu thương mình hay không thì họ đành gửi hy vọng vào may rủi. Cô gái người Dao tên Phụng trong truyện ngắn cũng là như vậy. Giống nhiều cô gái vùng cao khác, Phụng cũng được mai mối để lấy lập gia đình. Dù rất bất ngờ nhưng vì phong tục tập quán bao đời của tổ tiên, vì chiều lòng cha mẹ mà Phụng cũng đồng ý. Hai gia đình cũng gặp mặt nhau để thống nhất lễ cưới, cỗ bàn cũng được chuẩn bị chu đáo. Nhưng rồi gia đình Phụng biết việc chú rể Thịnh bị tật ở chân. Bố mẹ Phụng nổi giận muốn hủy đám cưới còn anh trai Đoàn cùng chị dâu có phần lý bênh họ nhà trai. Là người trong cuộc nhưng từ đầu đến cuối Phụng luôn bị động. Tâm trạng cô luôn lo lắng, phân vân, bất an không biết tương lai của mình và Thịnh sẽ ra sao. Nhưng khi biết anh bị tật ở chân, Phụng bỗng thấy trong lòng trào lên nỗi niềm thương cảm. Được sự vun vén, ủng hộ của anh trai và chị dâu, Phụng đã quyết định lên duyên chồng vợ với Thịnh. Câu chuyện nhiều cảm xúc của cô gái người Dao khi đứng trước sự kiện quan trọng của đời mình. Do chưa từng quen biết chú rể nên việc lấy chồng khiến Phụng quá bất ngờ, bối rối. Nghe theo lời khuyên của anh chị, hai người đã có cuộc sống hôn nhân hạnh phúc và cảm xúc trái tim mà Phụng đã hy vọng Thịnh sẽ là người chồng tốt của mình. Truyện ngắn giúp người đọc, người nghe hiểu hơn những nét văn hóa độc đáo trong hôn nhân cũng như cuộc sống hàng ngày của người dân vùng cao đất nước. (Lời bình của BTV Hoàng Hiệp)
Trong tác phẩm “Việt Nam Cổ Văn Học Sử”, tác giả Nguyễn Đổng Chi đã viết: “Vào những ngày hội hoặc ngày tế thần, thường thường là mùa Xuân xa ngày cấy hái, trai gái các bộ lạc thôn ấp thường tụ tập lại một nơi, đặt ra lời ví hát ghẹo nhau, trong khi gảy đàn, thổi sáo, đánh trống, múa nhảy hay là bày các trò vui”. Nhiều đời nay, đến hẹn lại lên, dân gian khắc ghi những lễ hội truyền thống qua các câu ca dao quen thuộc.
Trong xã hội hiện đại, vấn đề bi kịch trẻ vị thành niên luôn là nỗi lo lắng, thậm chí ám ảnh không của riêng ai. Đề tài này trở thành đối tượng phản ánh, khai thác của nhiều nhà văn. Với giọng văn giàu chất trữ tình, truyện ngắn “Trăng lạnh” của tác giả Tạ Thị Thanh Hải đã mang đến cho người đọc nhiều xúc cảm. Có lẽ độc giả ấn tượng ngay từ nhan đề của truyện. Trăng lạnh hay đó chính là một nốt trầm trong bản hòa ca cuộc sống lao xao bộn bề, tác giả đã lựa chọn ngôi kể thứ nhất như hóa thân vào nhân vật, để nhân vật chính tự kể lại những gì mà mình đã trải qua, đan cài giữa tự sự và biểu cảm, để rồi mỗi chi tiết như gieo vào lòng độc giả nỗi niềm cảm thông xa xót. Cô bé là kết quả của tình yêu, đam mê và hiến dâng nhưng cô lại thấy mình chỉ như một hạt máu rơi, một hạt bụi vô duyên bám vào chiếc áo choàng xa hoa của đời mẹ. Và cô đã trở thành một quân cờ trong tay của người cha dượng mưu mô trong một nước cờ cao tay để cứu mẹ và dượng thoát khỏi vòng lao lý. Bi kịch bị đẩy lên cao trào đau đớn hơn khi cô bé vô tình trở thành nạn nhân trong cuộc trao đổi giữa cha dượng và cha đẻ của mình. Thật xót xa biết bao. Nhưng chính trong giây phút căng thẳng nhất ấy, tác giả đã tự giải nguy cho cô bé. Người đàn ông ở trong trạng thái say mềm bất lực vẫn còn một chút nhân tính nên đã để cho cô bé đi. Chi tiết nhỏ ấy đã trở thành điểm sáng của câu chuyện. Nỗi xót xa đắng đót của nhân vật chính đã được hóa giải. Hoàn cảnh và nỗi niềm của cô bé Nguyệt có lẽ ta dễ bắt gặp đâu đó ngoài đời. Thông qua nhân vật ấy, tác giả đã muốn gửi gắm đến người đọc thông điệp về lòng nhân ái và sự sẻ chia rằng, xin hãy đừng để đam mê lầm đường lạc lối hóa thành thù hận. Xin hãy lắng nghe lời tha thiết nguyện cầu của những trái tim trong trẻo, để cuộc đời này bớt đi những bi kịch oan khiên…(Lời bình của BTV Vân Khánh)
Những trang đầu nhà văn đặc tả bối cảnh cuộc sống của một gia đình miền núi trên đỉnh trời chỉ có mây và núi, thực sự cách biệt, cô lập và buồn tẻ. Để lý giải vì sao khi người mẹ mất đi, cuộc sống của những đứa trẻ trở nên bị đe dọa, cư xử của người cha trở nên cùng quẫn đến vậy. Không vòng vo, nương nhẹ, ngay đầu truyện nhà văn đi thẳng vào chiếc giường, chú tâm miêu tả sự sắp xếp, trình tự vị trí chỗ nằm của từng người trong gia đình. Chỉ có một nhà văn giàu trải nghiệm, sắc sảo, thậm chí là đáo để mới đi thẳng vào góc khuất sâu thẳm, không nề hà ngại ngùng. Những đối thoại của người cha với người bà đã cho thấy tất cả và từ đó soi chiếu được tất cả những tăm tối trái ngang. Đó là tệ nạn rượu chè, vấn nạn quan hệ cận huyết do điều kiện sống, do lối sống bản năng, do sự kém hiểu biết, lạc hậu. Không khai thác cuộc sống nghèo đói, nhưng người đọc thừa sức hình dung. Điều mà nữ nhà văn chạm tới là đời sống tinh thần khi mà tất cả ngủ trên một cái giường, cuộc sống thiếu tiện nghi, sự tăm tối thiếu ánh sáng văn minh, không giao lưu với bên ngoài khiến con người ta trở nên quẩn quanh, bế tắc, dễ làm càn. Thói quen sống cam chịu khiến họ là nạn nhân của chính họ. Nhà văn Y Ban chính là người phát hiện và là người cảnh tỉnh, rung hồi chuông báo động. Phải thương lắm nhà văn mới viết dữ dằn thế. Nhiều chi tiết đọc lên thấy gai người và đầy ám ảnh: “Cả đêm nó thức để canh bố, để bảo vệ em gái và chính mình”. Ranh giới của bản năng và nhân tính, giữa sự u tối và tội ác thật mong manh, thật đáng sợ khi con người sống không có ý chí và hiểu biết. Cái kết lửng càng có sức lay động. Nhân vật “nó” thật đáng thương. Rồi ra số phận mẹ con nó thế nào, có bao phụ nữ vùng cao như nó đang phải sống như thế vẫn là những dấu hỏi lớn. Dẫu sao vẫn có ánh sáng niềm tin. Lớp trẻ lớn lên ở vùng cao có nhận thức hiểu biết hơn, sẽ vượt thoát, sẽ không chấp nhận cuộc sống u tối. (Lời bình của BTV Tuyết Mai)
Ca dao được ví như cung đàn muôn điệu của người bình dân. Có thể nói bên cạnh những giai điệu tươi vui và rộn ràng, ta còn nghe vọng không ít những khúc nhạc buồn thương ai oán. Đó là nỗi lòng của những kiếp người bất hạnh, những cảnh đời éo le, trắc trở. Và ai oán, cảm thương hơn cả là những câu hát than thân của người phụ nữ. Từ đây, người đương thời và đời sau thấy được bi kịch của thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trong các cây bút trưởng thành trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Trọng Tạo được xem là một nhân vật đặc biệt bởi sự tài hoa và đa dạng trong hoạt động sáng tạo. Ông là nhạc sĩ, nhà báo (trưởng ban Biên tập thơ Báo Văn nghệ), họa sĩ, tác giả của biểu tượng Ngày thơ Việt Nam, v.v..nhưng phần quan trong nhất và chiếm số lượng nhiều nhất trong sự nghiệp sáng tạo của ông vẫn là thơ. Sinh thời, ngoài 3 tập thơ đầu tiên in chung, Nguyễn Trọng Tạo đã xuất bản 8 tập thơ, 2 tập trường ca và 1 tập thơ dành cho thiếu nhi. Trong đó, tập thơ Đồng dao cho người lớn (1994) và tập trường ca Con đường của những vì sao (1981) đã mang về cho Nguyễn Trọng Tạo giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012. Nhân dịp kỷ niệm 5 năm ngày mất nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật (VOV6), Đài Tiếng nói Việt Nam xin được dành một cuộc trò chuyện về chân dung thơ ông với tên gọi: Nguyễn Trọng Tạo – Nửa say nửa tỉnh nửa cười nửa đau
Nhân vật chính trong truyện ngắn chúng ta vừa nghe không có tên cụ thể, nhà văn chỉ gọi là ông lão vẽ tranh. Sau hơn 60 năm lưu lạc, ông tìm về quê ngoại của mình để sống những năm tháng cuối đời. Hàng ngày, ông vẽ tranh truyền thần hoặc vẽ theo yêu cầu cho các khách gần xa mà không đòi hỏi công xá, ai muốn đưa bao nhiêu cũng được. Ông đều vui vẻ và luôn vẽ bằng cả tấm lòng của mình. Có thể nói, ông lão vô danh ấy là một nghệ sĩ đích thực, mỗi bức tranh của ông mang lại sự xúc động cho người xem và thu phục cả nhân tâm con người. Cho đến một ngày không nhận vẽ truyền thần nữa, dường như ông lão bước vào một giai đoạn thật đặc biệt, đó là vẽ như trả món nợ ân tình với quê hương, vẽ như để tổng kết cuộc đời của mình. Ông vẽ mải miết như quên hết thời gian. Cho đến bức vẽ cuối cùng, ông dồn hết tâm lực để vẽ một bãi cỏ mùa xuân với cô gái nhỏ hàng ngày giúp việc cho ông, bé Hồng. Chính bức tranh ấy đã biến Hồng, vốn được giới thiệu trong phần đầu truyện là một đứa bé câm và dở người, đã thốt lên nghẹn ngào tiếng nói đầu tiên trong cuộc đời của mình. Qua hình tượng ông lão vẽ tranh, nhà văn đã gửi tới người đọc, người nghe những thông điệp thật sâu sắc. Thứ nhất, người nghệ sĩ không thể sáng tạo nếu thiếu đi quê hương và nguồn cội. Thứ hai, nghệ thuật đích thực phải mang đến những giá trị tích cực cho đời sống con người, khiến con người trở nên tốt đẹp hơn. Đó chính là tinh thần nghệ thuật vị nhân sinh. (Lời bình của BTV Đỗ Anh Vũ)
Với số lượng lên tới 70 bài thơ, tập thơ “Duyên” là tập sách thứ 15 trong hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Thế Kiên. Theo Nhà giáo, Nhà Phê bình văn học Nguyễn Văn Hòa “Không chỉ trên bề mặt câu chữ, hình ảnh, tứ thơ mà bằng tài năng, vốn sống, vốn hiểu biết của mình nhà thơ Nguyễn Thế Kiên đã mở rộng biên độ cho sự liên tưởng, sáng tạo. Tác giả mở ra hiện thực cuộc sống với bộn bề những giá trị thực - ảo, tốt - xấu, thiện lương- hiểm ác...và chuyển tải, gửi gắm vào thơ bằng một giọng điệu lạ, trong trẻo và giàu chất suy nghiệm”.
Trần Khát Chân là vị tướng Anh hùng chống ngoại xâm kiệt xuất nhất cuối triều Trần. Trong lịch sử các triều đại phong kiến chống ngoại xâm của Đại Việt từng xuất hiện nhiều vị tướng tài năng, dũng khí can trường nhưng một vị Tổng tư lệnh chiến trường mới 20 tuổi, lại xuất thân từ một Thái học sinh ( tức Tiến sĩ) như Trần Khát Chân thì chỉ có một. Năm 1390, Ngài đã chỉ huy quân Long Tiệp nhà Trần đánh tan cánh quân xâm lược của vua Chiêm Chế Bồng Nga, kẻ đang ngự giá thân chinh tiến chiếm Thăng Long lần thứ tư trên sông Hải Triều. Sau công huân rỡ ràng đó, Ngài được thăng chức Thượng tướng quân. Năm 1399, trước họa cướp ngôi nhà Trần của Hồ Quý Ly, vị Thượng tướng quân lỗi lạc ấy, chỉ vì một giây lát chần chừ mà bị Hồ Quý Ly sát hại cùng với 370 vị tướng và thân vương nhà Trần. Sử sách đã bàn khá nhiều về cái giây lát mất còn ấy. Truyện ngắn Tiếng thét ngàn năm không đi sâu vào khoảnh khắc bi thương ấy mà tập trung khắc họa cuộc đời nhân vật Trần Khát Chân, qua đó nhà văn Lê Ngọc Minh bày tỏ một lời bàn cảm thương và day dứt. Lịch sử đã chứng minh, trước họa xâm lăng, kẻ cường quyền nào không biết cố kết sức mạnh dân tộc thành một khối vững chắc, lại đi hãm hại hiền tài thì sớm muộn gì cũng thảm bại, đất nước và nhân dân bị lầm than vong quốc như Nguyễn Trãi đã viết trong Cáo bình Ngô “... Vừa rồi nhân họ Hồ chính sự phiền hà/ Để trong nước lòng dân oán hận/ Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa…”.
Ngoài ra, theo chúng tôi còn một thông điệp nữa làm nên sức nặng cho truyện ngắn, đó là việc trọng dụng người tài. Thượng hoàng Trần Nghệ Tông với con mắt tinh đời và tấm lòng rộng lượng đã nhìn ra người tài mà ở đây còn rất trẻ, “tài không đợi tuổi”. Trước tình thế nguy kịch “ngàn cân treo sợi tóc” khi đại quân địch do Chế Bồng Nga ngự giá thân chinh đã sắp tiến vào Thăng Long, Nghệ hoàng đã có một nước đi sáng suốt. Ngài không giấu diếm việc sức khỏe mình yếu sợ không địch nổi tài thao lược của Chế Bồng Nga, không ngại việc lời ra tiếng vào, không sợ đặt cuộc số phận chính trị của mình vào trò may rủi để cất nhắc Trần Khát Chân-một viên Đô tướng trẻ mới mười chín tuổi lên làm Tổng chỉ huy quân đội thống lĩnh đại quân đi chinh phạt Chế Bồng Nga. Một truyện ngắn hấp dẫn, tiết tấu nhanh qua những câu văn ngắn và giọng kể đầy cảm thương của nhà văn./.
Đất nước Việt Nam ta vốn là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Người dân Việt quanh năm hai sương một nắng canh tác trên đồng ruộng. Chỉ sau vụ Chiêm và vụ Mùa, tức mùa Xuân và mùa Thu, người nông dân ta mới được nghỉ tay. Cũng dịp này, các làng tổ chức hội hè. Và đó cũng là nguyên cớ ra đời các lễ hội lâu đời, đặc biệt là được tổ chức rất nhiều vào mùa Xuân. Trong tác phẩm “Việt Nam Văn Hóa Sử Cương”, nhà khảo cứu Đào Duy Anh đã đưa ra nhận xét: “Trong làng thường năm có nhiều kỳ tế lễ để dân làng có dịp “ăn uống” và “vui chơi”. Những cuộc tế 1ễ lớn nhất là lễ Kỳ phúc về mùa Xuân và mùa Thu để cầu bình yên cho dân làng, lễ Nhập tịch hay vào đám vào khoảng tháng Giêng, tháng Hai, khi thường thì chiếu lệ tế lễ dăm bảy ngày, năm nào hòa cốc phong đăng dân gian làm ăn thịnh vượng hay nhân lễ rước sắc thần, hay nhân lễ khánh thành đình mới thì mở Đại hội, bày những cuộc vui chơi hát xướng đến nửa tháng hay cả tháng”.
Quý vị và các bạn thân mến, nếu truyện ngắn “Sự tích câu ca dao” nhà văn Đỗ Hàn lấy cảm hứng từ truyền thuyết “Mỵ Châu- Trọng Thủy” thì truyện ngắn “Bức huyết thư” ông lại phóng bút sáng tác phần “Hậu Truyện Kiều”. Đây đều là hai tác phẩm văn học nổi tiếng và in đậm trong tâm trí của người dân Việt Nam. Hai truyện ngắn có không gian, thời gian, nội dung khác nhau nhưng có một điểm chung là số phận bi thảm của người phụ nữ. Mỵ Châu vì ngây thơ tin tưởng Trọng Thủy mà trở thành tội đồ làm nước mất, nhà tan. Mỵ Châu có lẽ đáng thương hơn là đáng trách. Thúy Kiều tuy đã tái hợp cùng Kim Trọng, Kiều về ở cùng Kim Trọng nhưng nàng cũng sống không hạnh phúc. Kim Trọng bận rộn công việc, không quan tâm khiến Thúy Kiều cô đơn. Cuối cùng nàng hiểu ra chỉ có Từ Hải mới là người yêu mình nhất, trân trọng mình nhất. Kiều chọn cái chết để giải thoát cho cuộc đời duyên phận dở dang của mình. Dựa trên truyền thuyết “Mỵ Châu- Trọng Thủy”và truyện thơ “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du, nhà văn Đỗ Hàn đã sáng tác nên hai truyện ngắn sinh động, giầu sức sáng tạo, ẩn chứa nhân sinh vui buồn của con người. Khai thác nguồn chất liệu văn học dân gian để có những tác phẩm nghệ thuật nói về vấn đề ngày nay hay những bài học đạo đức, về triêt lý nhân sinh đời người là một một cách là tốt để góp phần giúp người đọc, người nghe hiểu hơn lịch sử dân tộc cũng như những góc nhìn khác nhau về văn học, văn hóa dân gian Việt Nam.
Như đã hẹn, chương trình đêm nay gửi tới các bạn nội dung đêm thơ mang tên “Bản hòa âm đất nước”. Đây là hoạt động thuộc khuôn khổ Ngày thơ Việt Nam năm nay, diễn ra vào đêm qua, đêm Rằm tháng Giêng. Đêm thơ có sự góp mặt của 16 tác giả trong nước và quốc tế.
Sân khấu đêm thơ diễn ra vào đêm nay, đêm Rằm tháng Giêng có sự góp mặt của các tác phẩm và tác giả người dân tộc thiểu số. Đó là một điểm nhấn quan trọng rất đáng nhắc tới của Ngày thơ Việt Nam năm nay. Những năm qua, chương trình Tiếng thơ của Ban VHNT (VOV6) cũng rất chú trọng lưu trữ và giới thiệu sáng tác của các tác giả đến từ các vùng miền, thuộc các tộc người trên khắp Tổ quốc.
Bước ra từ thần thoại, rồng là một biểu tượng tôn nghiêm, cao quý rất được người thời xưa coi trọng. Bởi vậy, nhiều tác phẩm văn học dân gian nước ta đề cập tới biểu tượng rồng.