Một mái ấm, một người bạn đời cùng chia sẻ buồn vui, đó là khát vọng, là mục đích hướng tới trong cuộc sống của người Việt ta nhiều đời nay. Mái ấm gia đình là giá trị tinh thần của con người ở tuổi trưởng thành. Trong ca dao về hôn nhân và tình cảm vợ chồng đã đề cập một cách kỹ lưỡng điều này, cho thấy đó là đặc trưng văn hoá của con người, dân tộc ta.
Hoa sen trong Phật giáo là biểu tượng của sự thanh tịnh, thuần khiết, nhắc nhở về giác ngộ của chúng sinh. Ý niệm ấy phảng phất trong nhiều sáng tác thơ ca. Mỗi sắc thái, dáng nét của sen đều gợi cảm xúc, những liên tưởng tế vi, đầy trắc ẩn.
Hoa sen trong Phật giáo là biểu tượng của sự thanh tịnh, thuần khiết, nhắc nhở về giác ngộ của chúng sinh. Ý niệm ấy phảng phất trong nhiều sáng tác thơ ca. Mỗi sắc thái, dáng nét của sen đều gợicảm xúc, những liên tưởng tế vi, đầy trắc ẩn.
Như nhiều tác phẩm khác của Đỗ Bích Thúy, truyện ngắn Ấm nước đang sôi mà chúng ta vừa nghe bảy tỏ sự quan tâm đến số phận, tình yêu và hạnh phúc của những người phụ nữ vùng cao mà Kim, nhân vật chính trong truyện là một đại diện điển hình. Cô phải lấy chồng theo sự sắp đặt của gia đình, về làm vợ Thào mà không hề có tình yêu. Người mà Kim dành tình cảm và cũng yêu Kim tha thiết là Quyết. Quyết chưa lấy vợ và vẫn luôn hết lòng giúp đỡ Kim khi thấy Kim gặp khó khăn. Bi kịch trong Kim ngày càng lên cao trước những ghen tuông vô lý của Thào, bết tắc trong cuộc sống hiện tại và đặc biệt là khi Thào bị họ hàng bắt vào trại cai nghiện. Đỗ Bích Thúy đã vô cùng tinh tế khi diễn tả tâm lý nhân vật Kim, từ khi Quyết gặp mẹ con Kim đang đi bộ về đến đầu làng cho đến khi Kim ngồi lặng lẽ đun hết ấm nước này đến ấm nước khác trên bếp. Lòng Kim vẫn còn tình cảm với Quyết nhưng đâu có dễ đến với nhau, bởi Kim bây giờ còn có Quý, đứa con của cô với Thào. Truyện ngắn có một cái kết mở. Người phụ nữ miền núi đã phải chịu bao thiệt thòi, đặc biệt trong chuyện hôn nhân khi không được tự quyền quyết định hạnh phúc của mình. Muốn thoát khỏi những áp đặt và trói buộc ấy cần phải mạnh mẽ và dũng cảm để thay đổi. Và chúng ta thầm mong Kim cũng như biết bao người phụ nữ khác sẽ tìm thấy hạnh phúc đích thực của đời mình.
Tình yêu, mái ấm gia đình vẫn luôn là khát vọng, hướng vọng của con người mọi thời, mọi đời. Điều đó thể hiện một cách đầy tinh tế và sâu sắc trong ca dao đề cập tới lứa đôi của người Việt ta.
Ngôn ngữ ca dao, tục ngữ có hình ảnh con trâu thể hiện đầy đủ các khía cạnh của văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Nói đến trâu là nói đến nền sản xuất nông nghiệp và văn hoá làng xã. Bên cạnh ý nghĩa hiển ngôn, PGS.TS Lê Đức Luận – Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng còn chỉ ra ý nghĩa hành ngôn của những bài ca dao nói về hình ảnh con trâu, thể hiện những nhận xét của tác giả dân gian về con người, việc đời và rút ra các mối quan hệ nhân sinh.
Nhìn vào thơ Việt đương đại, chúng ta có thể thấy đa số các tác giả trẻ thường lựa chọn hình thức tự do cho mỗi bài thơ của mình. Thế nhưng cũng có không ít người vẫn say đắm, mặn mà, tìm về các thể thơ truyền thống và gặt hái được không ít thành tựu. Trương Xuân Thiên (sinh năm 1979) là một trong những gương mặt như vậy. Sau hai tập thơ đầu: Tư duy S (NXB Văn học 2005) và Homo Sapiens Người tinh khôn (NXB Văn học 2009), Trương Xuân Thiên đã tìm về thể lục bát với sự ra mắt hai tập thơ: Áo hồ ly (NXB Văn học, 2017) và Lục bát tình nhân (NXB Thanh Hóa, 2021). Chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật (VOV6), Đài Tiếng nói Việt Nam lần này xin được dành một cuộc trò chuyện về chân dung thơ Trương Xuân Thiên với tên gọi: Trương Xuân Thiên và cuộc trở về cùng lục bát.
Truyện “Cha tôi – Kép Cúc” của nhà văn Phan Đình Minh kể về mối tình tay ba, họ đều là trai tài gái sắc và đều là học trò yêu của cụ Trùm Thảo-Trưởng Chiếu tuồng làng Thạch Lãm. Chỉ là một chiếu tuồng truyền thống, song nó khiến làng Thạch Lãm nổi tiếng quanh vùng, nó làm xao xuyến bao tâm hồn mỗi khi làng mở đám vào hội; các tuồng tích nhân đạo trung nghĩa, anh hùng trượng nghĩa thấm đẫm vào hồn người làng; làm nên chính hồn làng. Nhân vật xưng Tôi-người kể chuyện là con trai của ông Nhẫn bà Ngát. Tôi kể câu chuyện quá khứ hiện tại đan xen. Ngày ấy mẹ Tôi có tình cảm với kép Cúc chứ không phải với cha. Thế rồi chính ông ngoại là người chủ động kết duyên mẹ và cha. Cha đi bộ đội, mẹ Tôi và Kép Cúc vẫn diễn tuồng với nhau. Mẹ Tôi đã mắc lỗi với cha khi ngả vào Kép Cúc sau một buổi diễn họ vào vai tuồng hai nhân vật yêu nhau, như một tất yếu hóa thân. Đúng dịp ấy thì cha Tôi từ chiến trường về. Họ đã thách đấu nhau gần suốt đêm, rồi Kép Cúc bỏ đi biệt tích. Sau nhiều năm, Kép Cúc trở về muốn vực dậy chiếu tuồng, nhưng lực bất tòng tâm. Cái chết của Kép Cúc hóa giải ân oán giữa họ. Còn giọt nước mắt của cha Tôi bên huyệt mộ Kép Cúc thể hiện cái nghĩa từng gắn bó một thời tuổi trẻ say mê học tuồng diễn tuồng. Giọt nước mắt của người đàn ông nó bao hàm ý nghĩa sâu sa, cha Tôi chấp nhận di chúc của Trưởng Chiếu tuồng Kép Cúc, đặng vực dậy chiếu tuồng - văn hóa làng, mảnh hồn làng Thạch Lãm bấy lâu bị chểnh mảng, lãng quên.
Trong thời khắc khó khăn trong cuộc đời, nhiều người đã tìm đến những vần thơ để giãi bày. Lý do thường thật giản đơn bởi thơ là giấc mơ, là khát vọng từ những ngày rất xa. Khi cảm xúc cho trang thơ bỗng nhiên một ngày chợt đến, họ đón nhận và viết như lẽ thường tình. NSND Hoàng Cúc là một người như thế. Mới đây, bà bất ngờ ra mắt một trường ca mang tên “Cúc” trải lòng cùng độc giả bao suy tư, ký ức cuộc đời.
Ở truyện ngắn “Huyệt rừng”, thủ pháp đồng hiện - tự sự được sử dụng nhuần nhuyễn đưa người đọc, người nghe từ hiện tại trở về quá khứ rồi từ quá khứ trở lại hiện tại, đan xen giữa hai bờ hư thực. Thủ pháp trên buộc người đọc, người nghe phải tập trung theo dõi. Từ đó xâu chuỗi từng tình tiết và hành động của các nhân vật mới hiểu rõ nội dung và ý nghĩa nhân văn của truyện. Tác giả Đỗ Ngọc Bích đã khéo léo đan cài các sự kiện lịch sử giống như trình chiếu một thước phim. Chúng ta hồi hộp dõi theo bước chân của nhân vật Thư đi qua từng cánh cửa dần dần được mở ra và theo bóng lưng thoắt ẩn thoắt hiện của ông già bí hiểm. Thư được chứng kiến cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của nhân dân dưới sự chỉ huy tài tình của bảy anh em họ Lỗ - bảy vị anh hùng vùng núi Ngang chống lại đội quân Nguyên Mông hung hãn, tàn bạo để bảo vệ vua Trần, bảo vệ quê hương. Thư ngỡ ngàng nhận ra cái dự án lớn mà tập đoàn Đại Tín đang tìm mọi cách thực hiện ở khu vực núi Ngang thực chất là đang tàn phá rừng phòng hộ, gây nguy hại đến cuộc sống của người dân nơi đây. Thư càng bất ngờ hơn khi tận mắt chứng kiến Vũ - Giám đốc xây dựng của tập đoàn cũng là người tình của Thư chính là kẻ đã đứng sau thuê Ngòi đốt phá rừng phòng hộ, lừa người dân ký vào hợp đồng chuyển nhượng đất rừng nhằm hợp thức dự án. Với vị chủ tịch tập đoàn và với Vũ, lợi nhuận khủng từ dự án mới là thứ quan trọng hay với Ngòi - kẻ có lai lịch không rõ ràng, đồng tiền đã che mờ mắt hắn. Diễn biến truyện được đẩy kịch tính, cao trào khi thầy lang họ Lỗ và người dân trừng trị kẻ xấu. Rừng núi Ngang từng là mồ chôn quân xâm lăng. Giờ đây, rừng là mồ chôn những kẻ phá hoại rừng. Tuy chi tiết kịch tính đó xuất hiện qua cơn mê man của nhân vật Thư nhưng một loạt các diễn biến sau đó khiến người đọc, người nghe bất ngờ, ám ảnh trước cái chết của Ngòi và căn bệnh lạ mà Chủ tịch Tín và Giám đốc Vũ mắc phải. Dự án phải tạm dừng. Cái ác phải trả giá. Chi tiết cuối truyện tạo dư ba để chúng ta phải suy ngẫm về nhân quả ở đời. “Huyệt rừng” có cốt truyện dày, đề cập vấn đề mang tính thời sự về việc bảo vệ nguồn tài nguyên rừng quý giá đồng thời cần biết trân trọng những giá trị văn hóa, lịch sử linh thiêng của một vùng đất.
Nói đến hình ảnh con trâu là nói đến nền sản xuất nông nghiệp và văn hoá làng xã. Ngày nay, thời đại máy móc và công nghiệp, chúng ta ít thấy hình ảnh con trâu kéo cày trên cánh đồng như những ngày xưa. Thật đáng quý là vẫn còn lại những câu ca cho thấy quan niệm của cha ông về một loài vật gắn bó thân thuộc, và sâu đậm hơn cả là ân tình gửi gắm trong hình ảnh đẹp về lao động sản xuất nông nghiệp.
Truyện ngắn chúng ta vừa nghe lấy bối cảnh nông thôn Việt Nam cuối thập niên 70 thế kỷ trước, khi chúng ta vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh chưa lâu. Nền kinh tế đang vận hành theo lối bao cấp, phát triển hợp tác xã ở nông thôn, mọi hoạt động nông nghiệp đều vận hành dưới sự chỉ đạo của chính quyền. Vậy nên mới sinh ra những câu chuyện dở khóc dở cười mà lão Khổ là nhân vật đại diện, được nhà văn tập trung khắc họa. Bi kịch lần đầu xảy ra với lão Khổ và nông dân cả làng Cổ do bệnh sính hình thức của lãnh đạo. Lúa chín vàng những chưa cho gặt bởi còn chờ lãnh đạo huyện về thăm quan. Rốt cuộc lúa bị trận mưa đá phá hỏng, gần như mất trắng. Bi kịch lần hai xảy đến khi lão Khổ chuyển hướng làm kinh tế sang chăn vịt thì bị đánh thuế quá đắt, tận 7 đồng 1 con. Lão Khổ cũng như những nông dân chăn vịt khác nghĩ ra mẹo cho vịt đi ăn đêm để trốn thuế, không ngờ lại bị chính quyền rình bắt, phạt mỗi con 2 đồng và chủ vịt 20kg thóc. Truyện kết thúc bằng cảnh ông Khổ mua đôi vịt và nghe anh hàng vịt nói mỉa mai về việc muốn rẻ chỉ có mua vịt giời. Chỉ có vịt giời xuống ăn lúa thi không bị chính quyền xã phạt mà thôi. Chọn tên truyện là Lũ vịt giời, nhà văn đã dùng thủ pháp phản khách vi chủ, biến cái phụ thành cái chính để làm nổi bật cái giễu nhại, chua chát về sự ấu trĩ một thời trong quản lý kinh tế ở nông thôn. Truyện được viết cách đây đã 35 năm nhưng vẫn còn giá trị nguyên vẹn, đáng để cho mỗi người nghe người đọc suy ngẫm về việc thực thi các chính sách, điều hành xã hội cũng như phải biết lắng nghe và quan tâm nhiều hơn đến đời sống của người nông dân.
Các bạn thân mến, truyện ngắn như bộ phim chiến tranh chống Mỹ vô cùng sống động và chân thực. Hơi thở của chiến tranh, mùi bom đạn, mùi máu như tỏa ra từ từng câu chữ trong truyện. Qua lời kể của nhân vật tôi, người đọc người nghe dõi theo từng chặng đường hành quân, chứng kiến từng trận đánh khốc liệt của người lính Cách mạng tại Miền Nam. Người lính phải chiến đấu với bom đạn của kẻ địch, chống chọi với cái đói, với cơn buồn ngủ. Chiến trường quá khốc liệt, chiến trận liên miên, nhân vật cũng như đồng đội phải vừa di chuyển vừa chiến đấu mấy ngày liên không có phút giây chợp mắt. Trong những lúc hiếm hoi vắng tiếng súng thì việc được ngủ thật là điều hạnh phúc với họ. Với giọng văn sinh động, chân thực, truyện ngắn đã lột tả được những hi sinh, gian khổ của người chiến sĩ trên chiến trường. Bom đạn kẻ thù khiến lực lượng bộ đội ta tổn thất nặng nề. Với người lính thì sự sống và cái chết thực sự quá gần nhau. Mới hôm qua thôi đồng đội còn trò chuyện tếu táo về tương lai mà ngày mai có những người đã ra đi mãi mãi. Để có được ngày thống nhất, hòa bình là xương máu của biết bao thế hệ người lính trong hai cuộc kháng chiến. Vì lý tưởng cao đẹp, họ sàng sáng hi sinh vì tổ quốc. Người lính còn sống là còn chiến đấu như chi tiết nhân vật Biền bị thương tới 7 lần. Điều day dứt nhất với nhân vật tôi cũng như đồng đội đó là việc không thể tìm thấy Thái. Suốt mấy chục năm, việc phải tiếp tục hành quân mà không kịp tìm Thái là nỗi đau trong lòng các anh. Nhân vật Thái cũng như nhiều người lính khác trở thành trường hợp mất tích trong chiến tranh. Có lẽ Thái đã mãi mãi ngủ lại chiến trường năm xưa. Truyện ngắn để lại nhiều cảm xúc với người đọc, người nghe bởi những chi tiết chân thực về sự hi sinh gian khổ của người lính trên chiến trường. Truyện ngắn giúp chúng ta hiểu hơn một thời kỳ hào hùng của dân tộc, ghi nhớ công lao của những người chiến sĩ Cách mạng cho ngày hòa bình, hạnh phúc hôm nay.
Bài ca dao “Thằng Bờm” nói về câu chuyện đổi chác kịch tính gay cấn giữa hai con người đại diện cho hai tầng lớp đối lập trong xã hội phong kiến. Bài ca dao kết thúc với hình ảnh “nắm xôi” gần gũi với người lao động.Không phải ngẫu nhiên mà bài ca dao “Thằng Bờm” phổ biến trong dân gian, già trẻ, lớn bé đều thích, đều thuộc. Câu chuyện “nắm xôi” tưởng giản đơn nhưng giá trị mà những câu ca để lại vô cùng đa nghĩa và thấm thía.