
Các bạn thân mến, mở đầu truyện ngắn tác giả đã đưa người đọc, người nghe trở về chiến trường Miền Nam những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhân vật trung úy giải phóng quân tên Huỳnh khi chiến đầu tại căn cứ Cô Pen ở Nam Lào đã có cuộc gặp mặt bất ngờ với thiếu tá ngụy quân Đinh Hạ khi giải cứu đồng đội bị địch bắt. Dường như có điều kì lạ gắn kết số phận hai người lính. Ba lần gặp gỡ Định Hạ đều mang đến những cảm xúc khác nhau với trung úy Huỳnh. Lần đầu tiên gặp Đinh Hạ, Huỳnh hiểu rằng người lính bên kia chiến tuyến cũng không phải ai cũng thích bắn giết. Lần thứ hai gặp gỡ trong cuộc hòa đàm giữa lực lượng giải phóng và ngụy quân khiến Huỳnh vui mừng phấn khởi bởi sự thấu hiểu của hai bên. Lần thứ 3 gặp mặt Huỳnh ngậm ngùi trước số phận buồn của người đồng bào lưu lạc nơi đất khách quê người. Câu chuyện nhẹ nhàng giản dị về người lính trong và sau chiến tranh khiến chúng ta xúc động bởi tình người. Chi tiết Đinh Hạ không bắn tù binh Tuyển cùng việc Huỳnh cứu giúp vợ con Đinh Hạ khiến khoảng cách của hai người nhanh chóng tan biến. Họ chỉ còn là hai người lính mong chờ chiến tranh kết thúc để trở về cùng gia đình sống yên vui, hạnh phúc. Đáng buồn là số phận đưa đẩy khiến Đinh Hạ lưu lạc sang Canada để rồi sống cô độc. Sự xuất hiện của người con rơi gợi nhớ lại biết bao kỉ niệm chiến tranh trong con người nhân vật Huỳnh. Sự hi sinh của đồng đội, cuộc gặp mặt kì lạ với kẻ thù, tình cảm quân dân, tình nghĩa con người trong cuộc sống hòa quện với nhau khiến Huỳnh xúc động. Truyện ngắn viết về chiến tranh, về người lính nhưng đậm nét nhất vẫn là tình người, tình đời. Qua câu chuyện về hai người lính, người đọc người nghe cảm nhận được nét cao đẹp của người lính Cách mạng cũng như tinh thần hòa hợp dân tộc của đất nước ta. Thời gian đã qua, chúng ta hãy quên đi quá khứ buồn để hướng tới tương lai tươi đẹp.

Với truyện ngắn này, nhà văn Nguyễn Phú cho thấy những năm tháng sống ở những vùng rẻo cao Tây Bắc của tổ quốc đã cho anh không những là hiểu biết mà hơn nữa nhuốm vào trang văn là nỗi nhớ, nỗi khắc khoải trong tâm hồn, tâm trạng. Truyện khắc họa cuộc đời của bà Ài, người đàn bà vùng cao từ thuở mới về làm dâu nhà họ Sùng đến những cơ cực của kiếp người khi làm trái ý nhà chồng, tủi phận một mình nuôi con và mang trong mình đắng đót nỗi niềm. Ngòi bút nhà văn xuất thần trong những chi tiết đặc tả niềm hạnh phúc trần thế mà cũng rất đỗi thiêng liêng thời xuân trẻ của đời người đàn bà vùng cao. Những khoảnh khắc đẹp đẽ ấy quá ngắn ngủi so với dằng dặc những buồn khổ, cực nhọc quãng đời về sau của bà Ài. Nhưng có lẽ chính vì thế mà càng thấm sâu vào ký ức. Người đàn bà vì giải thoát cho con hổ trắng mà bị đuổi khỏi nhà chồng trong khi bụng mang dạ chửa rồi cũng chính người con trai của bà một lần nữa giải cứu con hổ năm nào đưa về trung tâm cứu hộ động vật hoang dã. Truyền thuyết về cuộc đối đầu, thắng thua với loài hoang thú thôi thúc sự kìm giữ, giam cầm, hay chính sự cả tin, lòng chấp niệm của con người nơi rừng cao núi thẳm đã tạo nên bất hạnh, nỗi khổ đau truyền kiếp. Điều còn lại cuối cùng vẫn là tình thân, tình thương, nỗi ân hận, sự thứ tha…

Hoàng Diệu, tên chữ là Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày mùng 10 tháng Hai năm Kỷ Sửu (5-3-1829) trong một gia đình nhà nho tại làng Xuân Đài, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nổi tiếng thơ văn từ thuở thiếu thời, năm 20 tuổi ông đỗ cử nhân, 26 tuổi đỗ phó bảng, được bổ Tri huyện Tuy Phước, thăng Tri phủ Tuy Viễn (cùng trong tỉnh Bình Định). Cuộc đời làm quan, Hoàng Diệu từng lập được nhiều quân công. Từ năm 1879 đến 1882, Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh, quản lý vùng trọng yếu nhất của Bắc Bộ là Hà Nội và vùng phụ cận. Ông đã chỉ đạo quân dân Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Ngày 25 tháng 4 năm 1882 (tức ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ), thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tự vẫn tại Võ Miếu để không rơi vào tay giặc. Nhân dịp kỷ niệm 195 năm ngày sinh của Tổng đốc Hoàng Diệu (1829 -2024), mới đây tại nhà Thái học, Văn Miếu, Quốc Tử Giám đã diễn ra Tọa đàm, giới thiệu cuốn sách biên khảo “Cuộc đời và sự nghiệp của Tổng đốc Hoàng Diệu và công cuộc giữ thành Hà Nội” của hai tác giả TS. Nguyễn Quang Hà và Luật sư Hà Thị Thanh. Sự kiện do Chi Hội di sản Văn hóa Hồng Châu, Hà Nội (Thuộc Hội di sản Văn hóa Việt Nam) kết hợp với NXB Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp tổ chức. Tham dự sự kiện này, BTV Võ Hà đã có ghi nhận về dấu ấn cuộc đời của Tổng đốc Hoàng Diệu trong văn học.
Trước thế sự, cuộc đời với bao nỗi niềm, ngổn ngang, khuất khúc, trái tim và ngòi bút nhà thơ đâu thể nguôi yên. Những năm qua bên cạnh công việc giảng dạy tại Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên, nhà thơ, Tiến sĩ văn học Nguyễn Kiến Thọ lặng lẽ quan sát, lặng lẽ viết. Ở tuổi U60, trang thơ Nguyễn Kiến Thọ chất chứa nhiều ưu tư về nỗi đời.

Lâu nay, dân tộc Mường vẫn được biết đến là một tộc người có nền văn học dân gian hết sức phong phú. Các làn điệu dân ca Mường rất phong phú, đa dạng như: hát Sắc bùa, hát xường, hát Bọ mẹng, hát ví, hát ru con, hát đồng dao, hát đố, hát đập hoa…. Đặc biệt trong ca dao người Mường, biểu tượng cá trở đi trở lại . Điều đó có thể lý giải là do người Mường sống ở những vùng thấp, gần sông, suối, ao, hồ. Vì vậy, người Mường rất quen thuộc, gắn bó với hình ảnh con cá. Hàng ngày, người dân nơi đây tận dụng môi trường tự nhiên để đánh bắt cá. Ăn cá và đánh bắt cá đã trở thành nếp quen thuộc của người dân nơi đây. Đặc biệt là các Phường, Hội đánh bắt cá thì rất sôi nổi, thú vị, nhất là lúc mùa nước cạn và đón cá lũ khi nước rút. Như vậy, cá có vai trò quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của người Mường. Đó vừa là nguồn thức ăn cung cấp chất dinh dưỡng, không thể thiếu trong các bữa ăn hàng ngày, vừa góp phần phát triển kinh tế, vừa là lễ vật quan trọng trong các dịp lễ, tết, hôn nhân…và trở thành biểu tượng nổi bật trong ca dao, dân ca truyền tải tư tưởng, tình cảm của người dân tộc Mường.
Trong lịch sử thi ca Việt Nam hiện đại, Hữu Loan là một gương mặt thơ đặc biệt. Đặc biệt bởi số lượng tác phẩm rất ít mà dựng lên được một phong cách riêng. Đặc biệt bởi những giai thoại lưu truyền xung quanh một tác phẩm. Đặc biệt bởi chính cuộc đời nhiều thăng trầm của ông, cuối cùng phải trở lại quê nhà bám đá mà sống. Cả cuộc đời Hữu Loan chưa từng nhận một giải thưởng văn học nào bởi giải thưởng lớn nhất của ông là giải thưởng sống trong lòng người đọc. Nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày mất nhà thơ Hữu Loan (2010 - 2025), chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật (VOV6), Đài Tiếng nói Việt Nam xin được dành một cuộc trò chuyện về chân dung thơ ông với tên gọi: Hữu Loan – Một tráng nhân thi sĩ.

Chiến tranh đã qua từ lâu nhưng dư chấn của nó còn vang động không nguôi với những con người của thời hiện tại. Không chỉ các tác giả từng trực tiếp tham gia kháng chiến có những trang viết mới về chiến tranh cách mạng mà cả những cây bút sinh ra và lớn lên sau 1975 cũng có những cách viết, cách tiếp cận riêng của mình. Trần Thị Tú Ngọc với truyện ngắn Lặng yên sau cơn mưa là một trường hợp như vậy. Trong truyện ngắn chúng ta vừa nghe, Lê Phương, nữ phóng viên xinh đẹp có ông bà nội cùng nhiều người thân trong gia đình bị chết dưới làn đạn của những người lính Việt Nam cộng hòa trong một cuộc đi càn. Cô gặp Duy, chàng trai vừa từ Mỹ về Việt Nam trong một dự án hợp tác về văn hóa. Rất vô tình, qua những tác phẩm của nhiếp ảnh gia Vũ Thiên, Phương phát hiện ra ông nội của Duy là người tham gia trận càn năm xưa. Mối tình vừa chớm nở của cô bỗng đứng trước nguy cơ tàn lụi. Cô quay lại gặp nhiếp ảnh gia Vũ Thiên lần nữa để tìm hiểu rõ hơn về trận càn năm xưa. Thế nhưng khi chiếc hộp ông Vũ Thiên đưa ra được đặt lên bàn, Phương đã quyết định không mở nó ra nữa. Quá khứ với bao thương đau không thể lãng quên, nhưng có lẽ đã đến lúc khép lại để mở ra những trang đời mới. Thế hệ đi sau rất cần hiểu về quá khứ của cha anh nhưng không có nghĩa sẽ phải gánh trên vai tất cả những hệ quả nặng nề, chặn đứng mọi con đường đến với nhau. Người xưa có câu: Lấy oán báo oán, oán oán chồng chất; lấy đức báo oán, oán oán tiêu tan. Quyết định của Phương tạo ra một cái kết nhân văn, ấm áp cho truyện ngắn. Người nghe người đọc có thể tin rằng, rồi đây Phương quay lại với Duy, cô sẽ trở về mái nhà có bà nội của Duy đang ngày đêm mong đợi.
Nếu coi kho tàng văn hóa dân gian như một “trầm tích” còn cất giữ bao điều bí ẩn thì ca dao tục ngữ Tày chính là một phần của trầm tích ấy mà có đi sâu tìm hiểu mới thấy được cái hay, cái đẹp và những giá trị lâu đời. Qua những câu ca dao, tục ngữ phổ biến ở Nghĩa Đô (Lào Cai), địa bàn sinh sống nhiều đời nay của người Tày, tác giả Nguyễn Thế Lượng tìm về với quan niệm vẻ đẹp người phụ nữ nơi vùng đất trù phú này.
Nhà văn Lê Anh Hoài sinh năm 1966 tại Hà Nội, tốt nghiệp Đại học An ninh, hiện đang là phóng viên báo Tiền Phong. Anh là tác giả của hai tiểu thuyết Chuyện tình mùa tạp kỹ và Vườn thượng uyển; hai tập truyện ngắn Tẩy sạch vết yêu và Nỗi sợ & Những khuôn hình; hai tập thơ Những giấc mơ bên đường và Mảnh mảnh mảnh. Không chỉ vậy, hành trang sáng tạo của anh còn gắn với vai trò của một nghệ sĩ nghệ thuật thị giác, một nhạc công nghiệp dư. Chương trình Đọc truyện đêm khuya hôm nay xin giới thiệu với các bạn một sáng tác mới của nhà văn Lê Anh Hoài, truyện ngắn Ngộ chữ:
Nhà thơ Trần Ngọc Mỹ sinh năm 1985 ở Hải Dương, hiện sống và làm việc tại thành phố Hải Phòng. Chị là hội viên Hội VHNT Hải Phòng, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Trần Ngọc Mỹ đã xuất bản 1 tập truyện ngắn, 1 tập tản văn và các tập thơ như: Khát những mùa yêu, Ban mai của bé, Bài thơ vỗ cánh, Quay chậm, Những ngày không quên. Đầu năm nay, chị ra mắt bạn đọc công chúng trường ca “Xuyên qua giấc mơ” và tập thơ “Ngày sẽ trôi” đều ấn hành tại NXB Hội nhà văn. 10 năm với gần 10 ấn phẩm giới thiệu tới bạn đọc, công chúng, Trần Ngọc Mỹ đã cho thấy năng lượng và hơn cả là tình yêu với văn chương và thơ ca. Từ hai tác phẩm mới của chị, trường ca “Xuyên qua giấc mơ” và tập thơ “Ngày sẽ trôi”, BTV chương trình cùng với nhà thơ, các bạn thơ nghĩ về tiếng thơ Trần Ngọc Mỹ:
Trong các cây bút thuộc thế hệ 8X, Khánh Văn Trần Nhật Minh là một gương mặt độc đáo. Anh từng là một gương mặt MC quen thuộc của Đài truyền hình kỹ thuật số VTC, biết chơi guitar và hát khá hay, nhiều lần tham gia trình diễn tại Sân thơ trẻ trong khuôn khổ Ngày thơ Việt Nam, viết kịch bản và tham gia trò chuyện một số chương trình thơ trên các kênh truyền hình. Trần Nhật Minh mới chỉ in một tập thơ duy nhất – Khúc hát cánh đồng (NXB Hội Nhà văn 2018) gồm 47 bài trong khi số lượng tác phẩm của anh lớn hơn thế nhiều lần. Cách đây gần 1 năm, Trần Nhật Minh đã qua đời sau một thời gian dài chống chọi căn bệnh hiểm nghèo. Nhân dịp sắp tới ngày giỗ đầu của anh, chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật (VOV6), Đài Tiếng nói Việt Nam xin được dành một cuộc trò chuyện về chân dung thơ Trần Nhật Minh với tên gọi: Khánh Văn Trần Nhật Minh – Người hào sảng làm thơ mê sảng

Chúng ta vừa nghe một truyện ngắn thật cảm động của nhà văn Đỗ Bích Thúy về đề tài gia đình. Truyện được kể qua ngôi thứ ba, nhân vật Mai. Mai lớn lên trong sự nuôi nấng chăm sóc của bà ngoại, sau khi mẹ đi lấy chồng xa. Tình cảm bà cháu được khắc họa qua ba phân đoạn: khi Mai còn ở nhà với bà, khi Mai đã ra Hà Nội học rồi ở lại làm việc, Mai quay về khi bà ốm nặng. Phân đoạn bà xuống Hà Nội được tác giả kể trước, xuất hiện ngay từ phần đầu tác phẩm. Ngôn ngữ nhân vật ngắn gọn mà lột tả ngay được cái mộc mạc, chất phác, chân tình của người vùng cao: “Sao người lại ở cái chỗ bé hơn cả chuồng dê thế hở Mai?”, “Phải ăn nhiều vào, mày gầy như cái lõi ngô ấy”. Những tháng ngày đẹp nhất có lẽ là khi bà vẫn còn khỏe và Mai mỗi cuối tuần lại từ trường nội trú trở về, bao giờ cũng thấy bà chờ sẵn trước cổng. Lần cuối cùng Mai được gặp bà, qua miêu tả của tác giả, có thể làm mỗi người nghe người đọc rơi nước mắt lúc nào không hay. Mai khóc nức nở trong khi bà lại mỉm cười nhẹ nhàng. Và câu nói cuối cùng của bà là: “Về trồng cây hồng cho bà. Mẹ mày thích ăn hồng lắm. Không có người trông nó chết mất Mai ạ. Năm nào cây hồng ra quả thì mẹ về”. Mai từ trước đó vẫn đem lòng oán giận với mẹ vì mẹ bỏ Mai mà đi. Nhưng đến cuối truyện thì tất cả mới sáng tỏ qua lời chị Chở kể với Mai, rằng mẹ buộc phải lấy chồng xa nhằm có một khoản tiền lớn trả cho nhà nội, để được quyền nuôi Mai. Hóa ra mẹ yêu Mai vô cùng mà Mai chưa hề rõ. Hình ảnh một trái hồng đu đưa trong gió tít trên cao mang cho mỗi người nghe, người đọc một niềm tin vào sự sum họp và đoàn tụ. Tình mẹ con mãi mãi không gì chia cắt nổi, nhất định mẹ sẽ trở về.

Với giọng văn đậm đà phong vị vùng cao, truyện ngắn là dòng ký ức về cuộc đời của nhân vật A Đơng. Cuộc đời của anh là sự đan xen giữa hạnh phúc và khổ đau, may mắn và bất hạnh. Là đứa trẻ bị bỏ rơi, A Đơng may mắn được Y Lim mang về nuôi dưỡng. Nhưng bất hạnh thay khi người mẹ nuôi Y Lim lại là người bị bệnh cùi nên hai mẹ con bị buôn làng ruồng bỏ. Sống trong sự xa lánh, kì thị nên A Đơng lớn lên như con thú hoang trong rừng. Vì sống tách biệt với cộng đồng nhưng trong lòng anh luôn khát khao được trở về buôn làng, được hòa vào nhịp sống của bà con dân làng. Trong cuộc đời anh có 3 con người quan trọng là mẹ nuôi Y Lim, người bạn thân A Mải và cô gái trẻ Y Nương. Nhưng A Đơng lại có lỗi với A Mải và Y Nương. Đứa con nhỏ ra đời cũng không khiến Y Nương quên được mối ô nhục mình phải chịu và lựa chọn cái chết. Đau khổ vì cái chết của người yêu, cuộc sống của nhân vật A Đơng tăm tối không có tương lai. Trong lòng anh luôn in đậm tình cảm với núi rừng nên hi sinh để bảo vệ cây sao cát xanh cuối cùng. A Đơng không qua khỏi vì vết thương nặng khi chiến đấu với bọn lâm tặc. Nhân vật A Đơng được tác giả xây dựng khá sinh động. Anh là người sống nội tâm, có cả điều xấu và điều tốt. Xuyên suốt truyện ngắn là sự u buồn của một con người bị tách ra khỏi cộng đồng, cội nguồn của mình. Nhưng cuối cùng sự hi sinh của A Đơng vì mảnh đất cha ông, vì những giá trị trong đời sống tinh thần cộng đồng đã khiến dân bản cảm động đón bà Y Lim và đứa con nhỏ trở lại. Chúng ta thổn thức trước những giằng xé, u uất, mong chờ, hối hận trong nội tâm của nhân vật khi khát khao sống hạnh phúc mà không được. Hình ảnh hai bà cháu dắt nhau về buôn làng như tia nắng xua tan mây đên mở ra tương lai tươi mới. Truyện ngắn cũng giúp bạn đọc hiểu hơn về đời sống văn hóa, tình thần cũng như mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng của người dân vùng cao.
Mới đây NXB Hội Nhà văn và nhóm Nhân sĩ Hà Đông đã tổ chức lễ ra mắt trường ca “Lò Mổ” và trưng bày bộ tranh “Nguyện cầu” (gồm 18 bức) của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Trường ca “Lò mổ” được đánh giá không chỉ gây ấn tượng bởi tính thử nghiệm, mà còn bởi sự kết hợp độc đáo giữa thơ ca và hội họa. Trường ca “Lò Mổ” của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều gồm 18 chương kết hợp nhiều hình thức: Thơ ca, thư từ, bản nháp, cho đến những đoạn đối thoại rời rạc. Mỗi chương của tác phẩm được minh họa bằng một phần bức tranh trong bộ tranh mang tên “Nguyện cầu” do tác giả tự vẽ minh họa. “Nguyện cầu” không chỉ là một bộ tranh đi kèm với “Lò Mổ”, mà chính là một phần sống động của tập trường ca này. Ngoài bản tiếng Việt, bản tiếng Anh của tác phẩm với phần chuyển ngữ do chính tác giả thực hiện dự kiến sẽ ra mắt độc giả trong thời gian tới. Tham dự ra mắt trường ca “Lò Mổ” và trưng bày bộ tranh “Nguyện cầu” của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, BTV Võ Hà của chương trình Tiếng thơ đã có cảm nhận về ấn phẩm này: