"Người săn gấu" (P2): Tình nghĩa thủy chung của đôi lứa 10/10/2024

Truyện ngắn Người săn gấu kể về cuộc đời của Thim, từ lúc còn là một chàng thanh niên vạm vỡ, nổi tiếng cả vùng về tài săn gấu cho đến khi trở thành một ông già mái tóc điểm bạc, làm chân đưa thư lưu động đã hơn 30 năm. Câu chuyện được kể lại cũng một phần lý giải tại sao ông Thim cả đời không lập gia đình, cũng không công tác ở nơi nào quá 3 năm. Hóa ra, mục đích sâu xa của ông là mong tìm lại được người con gái năm xưa, cô Phón, người đã dành cho ông một tình yêu trong trắng, ngây thơ, không tính toán, một tình yêu dũng cảm không sợ hãi bạo lực cường quyền cho dù phải hy sinh đến thế nào chăng nữa. Những hủ tục, lề thói và sự phân biệt tầng lớp trong xã hội cũ đã khiến hai người không thể đến được với nhau. Thim sau đó đi theo cách mạng để có một cuộc đời mới. Mô-típ này có thể khiến chúng ta liên tưởng đến Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài khi mối tình của hai nhân vật chính cũng trải qua hai thời kỳ là trước và sau khi làm cách mạng. Có điều ở Vợ chồng A Phủ, mỗi người nghe người đọc sớm nhận thấy cái kết có hậu trong cuộc đời hai nhân vật chính. Còn ở Người săn gấu của Cao Duy Sơn, nhân vật Thim phải trải qua mấy chục năm lặn lội tìm người xưa, như là một sự thử thách lớn lao tình cảm của con người. Một cái kết mang đến đầy hy vọng khi trên một bức thư Thim nhận được có tên Sầm Thị Phón. Và chúng ta thầm tin cho một cái kết hạnh phúc của cuộc trùng phùng giữa Phón và Thim. Truyện ngắn Người săn gấu của Cao Duy Sơn mang đến nhiều xúc động cho người nghe, người đọc, như một bản tụng ca về tình nghĩa thủy chung của bao lứa đôi trên cuộc đời này. Dù phải trải qua muôn ngàn khó khăn trắc trở, chỉ cần có một niềm tin, nhất định sẽ có ngày họ gặp lại nhau.

"Người săn gấu" (P1): Tình yêu nảy nở 10/10/2024

Nhà văn Cao Duy Sơn tên thật là Nguyễn Cao Sơn, sinh năm 1956 tại Cô Sầu, Trùng Khánh, Cao Bằng. Ông tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du Hà Nội năm 1989. Năm 1992 về công tác tại Đài phát thanh Truyền hình Cao Bằng. Năm 2001 chuyển công tác sang Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Cao Bằng. Năm 2003 chuyển công tác về Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Cao Duy Sơn là người trung thành với đề tài miền núi và đã nhận được nhiều giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Ông đã xuất bản hàng chục tập tác phẩm gồm tiểu thuyết và truyện ngắn, trong đó tập Ngôi nhà xưa bên suối giành giải thưởng HNVVN, vừa giành giải thưởng Văn học Đông Nam Á năm 2009. Năm 2017, Cao Duy Sơn nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Trong chương trình Đọc truyện đêm khuya lần này, chúng tôi xin được gửi tới quý thính giả phần đầu truyện ngắn của ông mang tên Người săn gấu.

Vi Thùy Linh – Còn lại một ái thành

Vi Thùy Linh – Còn lại một ái thành 10/10/2024

Trong các cây bút thơ nữ đương đại, Vi Thùy Linh là cái tên sớm gây được sự chú ý ngay từ khi mới xuất hiện. 17 tuổi đã đoạt Giải thưởng Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế và Tạp chí sông Hương. 19 tuổi xuất bản tập thơ đầu tiên. Ngoài 20 tuổi được một loạt các nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình tên tuổi viết bài tán thưởng như: Dương Tường, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Huy Thiệp, Thanh Thảo, Trần Đăng Khoa, Chu Văn Sơn. Vi Thùy Linh là nhà thơ đầu tiên được mời thực hiện một đêm thơ riêng tại Paris mang tên Tình tự Hà Nội. Vi Thùy Linh cũng là nhà thơ đầu tiên tổ chức trình diễn một đêm thơ tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Cho đến nay, chị đã xuất bản tất cả 7 tập thơ Chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật (VOV6) lần này xin được dành một cuộc trò chuyện về chân dung thơ Vi Thùy Linh với tên gọi: Vi Thùy Linh – Còn lại một ái thành

Món ngon Hà Thành trong ca dao

Món ngon Hà Thành trong ca dao 4/10/2024

Hà Nội từ xa xưa đã là trung tâm kinh tế, chính trị xã hội của đất nước, được đất trời ưu ái lại là nơi hội tụ tinh hoa mọi vùng miền nên hội tụ nhiều của ngon vật lạ. Và từ bao đời nay, những địa danh, vùng đất cội nguồn của các đặc sản ấy đã đi vào nhiều câu ca dao. Rất nhiều câu trong số đó đã trở thành câu cửa miệng, thành “căn cước” riêng của các làng, các phố của Hà Nội.

Hà Nội qua những thi phẩm  Phú Quang phổ nhạc

Hà Nội qua những thi phẩm Phú Quang phổ nhạc 30/9/2024

Lâu nay, các tác phẩm của nhạc sĩ Phú Quang, đặc biệt là những bản tình ca về Hà Nội được đông đảo công chúng yêu âm nhạc mến mộ. Bên cạnh những bản nhạc phim, các bản khí nhạc, nhạc không lời và ca khúc tự viết lời, nhạc sĩ Phú Quang đã phổ nhạc cho nhiều thi phẩm. Tên tuổi của các nhà thơ Phan Vũ, Dương Tường, Hoàng Hưng, Phạm Thị Ngọc Liên, Hồng Thanh Quang, Giáng Vân, Thảo Phương, Thanh Tùng, Nguyễn Trọng Tạo, Hữu Thỉnh… thêm sâu đậm trong làng thơ qua sự chắp cánh của âm nhạc Phú Quang. BTV chương trình đã có những cảm nhận về Hà Nội qua các thi phẩm phổ nhạc của người nhạc sĩ tài hoa.

Ca dao về kinh kỳ Thăng Long Hà Nội

Ca dao về kinh kỳ Thăng Long Hà Nội 26/9/2024

Trong “Chiếu dời đô” tự tay vua Lý Thái Tổ thảo năm 1010 có đoạn ghi về mảnh đất: “Ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam, bắc, đông, tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tốt tươi, phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thật là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Tương truyền, khi thuyền ngự vào sông gần nơi được xem là “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời” thì rồng vàng cuộn sóng bay vút lên trời, nhà vua đặt tên cho thành là Thăng Long. Mang vận mệnh Kinh thành của một quốc gia luôn phải đối mặt với binh đao, lửa đạn, Thăng Long - Hà Nội luôn cháy lên khát vọng rồng bay từ một nền văn hiến ngàn đời. Trải qua biến thiên của lịch sử, “chất Kinh kì” và “chất Kẻ Chợ” song hành ở đất và người Thăng Long - Hà Nội và là khía cạnh đặc trưng của vùng đất này. Điều đó được thể hiện rõ nét trong nhiều áng ca dao

Bùi Việt Phương – Trên sông con đò làm xước sương mai

Bùi Việt Phương – Trên sông con đò làm xước sương mai 25/9/2024

Trong các cây bút thơ đương đại thuộc thế hệ cuối 7x đầu 8x, Bùi Việt Phương là một giọng điệu gây được nhiều sự chú ý. Bắt đầu được biết đến từ phong trào thơ sinh viên ở Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Bùi Việt Phương trong 5 năm gần đây đã công bố tới 2 tập thơ, trong đó tập Ngày lạ (NXB Hội Nhà văn, 2019) dành giải C – giải thưởng Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp đại học, Bùi Việt Phương về Hòa Bình công tác và hiện là Phó TBT Tạp chí Văn nghệ Hòa Bình. Chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật (VOV6), Đài Tiếng nói Việt Nam lần này xin được dành một cuộc trò chuyện với tên gọi: Bùi Việt Phương – Trên sông con đò làm xước sương mai.

“Cây Kơ nia xin đừng khóc”: Lời ru buồn về ba người phụ nữ

“Cây Kơ nia xin đừng khóc”: Lời ru buồn về ba người phụ nữ 25/9/2024

Quý vị và các bạn thân mến, truyện ngắn như lời ru buồn về ba người phụ nữ là A mí (danh xưng gọi mẹ của người dân tộc Tây Nguyên), chị Rêu và Đót. Trái ngược với chị Rêu là người con gái sôi nổi, hát hay và hướng ngoại thì Đót là cô gái có phần ít nói và chỉ muốn gắn bó với buôn làng của mình. Chị Rêu không phải con đẻ của A mí, Ama nối dây với A mí khi chị đã gần 10 tuổi. Ama mất sớm khiến A mí phải gồng gánh cả gia đình trên đôi vai nhỏ không có thời gian chăm sóc Đót. Từ bé Đót đã gắn bó với chị Rêu, chứng kiến chị trưởng thành xinh đẹp rồi rời buôn làng lên thành phố. Chị Rêu rất yêu mến Đót nhưng lại có phần xa cách với A mí. A mí chỉ biết dấu nỗi buồn vào lòng, nỗi buồn nhân đôi khi chị Rêu bỏ làng hướng theo ánh hào quang của thành phố. Ngày A mí mất chỉ có Đót lẻ loi lo cho đám tang của mẹ. Đót lên thành phố tìm chị Rêu để chị về dự lễ cải mả cho A mí, một tập tục quan trọng của nhiều dân tộc Tây Nguyên nhưng không gặp chị. Ngày làm lễ cải mả cho A mí, chị Rêu bất ngờ xuất hiện khiến Đót vô cùng bất ngờ, vui mừng. Truyện ngắn được viết với ngôn từ, hình ảnh đậm đà nét văn hóa các dân tộc Tây Nguyên như một câu chuyện đượm buồn mà các già làng thường kể bên bếp lửa cho con cháu nghe. Xuyên xuốt câu chuyện là hình ảnh cây Kơ nia, một loài cây linh thiêng ở Tây Nguyên. Cây kơ nia cao lớn, mạnh mẽ nhưng cũng rất cô độc đứng đó chứng kiến nỗi buồn của A mí phải lấy chồng khi có biết bao ước mơ dang dở, chứng kiến niềm thương mến của Ngong, chàng trai tài giỏi với chị Rêu, chứng kiến nỗi lòng của Đót. Tâm hồn Đót gắn bó với buôn làng và lúc nào cũng mong muốn người thân yêu thương nhau. Đót buồn khi chị Rêu ham mê cuộc sống hào hoa nơi thành phố nhưng cũng vui mừng khi chị đã vượt qua sự xa cách để trở về chịu lễ cải mả cho A mí. Truyện ngắn giúp người đọc, người nghe hiểu hơn đời sống, phong tục, tập quán của những dân tộc thiểu số trên mảnh đất Tây Nguyên tươi đẹp.

“Phiên chợ cuối cùng”: Niềm tin đã mất

“Phiên chợ cuối cùng”: Niềm tin đã mất 20/9/2024

Nghe xong truyện ngắn này của nhà văn Nguyễn Phú, hẳn chúng ta còn nhớ đến câu ca dao xưa: “Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”. Mối tình đẹp của Sỏa và Sình bị ngáng trở bởi những lề lối, luật tục và cả sự tham lam, ích kỷ của những người thân. Sự ngáng trở, chia rẽ đó đã trở thành vết thương lòng cho người trong cuộc, nhất là người phụ nữ. Dù có bị xa cách, bị thời gian bỏ lại trong cô quạnh nhưng lời hứa năm xưa và niềm tin mãnh liệt đã cho nhân vật bà Sỏa có động lực để vượt qua mọi bão gió, đớn đau để chờ đợi người yêu trở về. Bà Sỏa chờ người yêu từ khi tóc còn xanh cho đến khi tóc đã điểm bạc, từ một cô gái tay không đến khi thành một người phụ nữ có cả trăm con bò... Có những lúc lòng gợn sóng, tự đặt câu hỏi về sự biệt tăm của người yêu, rồi lại tự trấn an mình, người phụ nữ đáng thương ấy lúc nào cũng hướng về người yêu xưa với lời ước hẹn năm cũ. Rồi khi không thể ngồi yên được, bà Sỏa đã dắt những bò xuống các chợ quanh vùng để tìm kiếm người yêu. Qua rất nhiều năm như thế, rồi đến một mùa xuân kia, bà xuống chợ và số phận đã cho bà gặp lại người cũ. Nhưng đó là một cảnh huống trớ trêu và bẽ bàng: người yêu năm xưa của bà đã trở thành một lão già ốm yếu đớn hèn, mấy chục năm chấp nhận cuộc đời tầm gửi trên gấu váy một người đàn bà giàu có khác. Niềm tin, tình yêu trong người đàn bà đau khổ đã hoàn toàn sụp đổ. Mà niềm tin và tình yêu là lẽ sống của cuộc đời bà, giờ nó không còn nữa thì cuộc đời bà cũng chẳng có ý nghĩa gì. Cuối truyện người đàn bà biến mất như tình yêu, niềm tin biến mất trong bà. Nghệ thuật dựng truyện, miêu tả sâu tâm lý nhân vật kết hợp sử dụng ngôn ngữ phù hợp với đặc trưng tâm lý đồng bào dân tộc Mông, giọng văn đầy thương cảm và nghệ thuật ẩn dụ (hình ảnh con bò) đã góp phần làm nên thành công của truyện ngắn này.

Phong dao Bàng Bá Lân

Phong dao Bàng Bá Lân 20/9/2024

Cùng thời với thi sĩ Bàng Bá Lân, nhà lý luận văn học Đinh Gia Trinh cho rằng: “Bàng Bá Lân là một nhà thơ có thể tiến bộ hơn nữa về nhạc điệu; ông ưa tả những niềm tình của thời xưa, những tâm lý đơn giản ở thôn quê và thi vị của đồng nội”.Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân viết về Bàng Bá Lân như sau: “Bàng Bá Lân gần Anh Thơ hơn gần Nguyễn Bính. Bàng Bá Lân cũng ít sống trong tình quê nhưng người hiểu cảnh quê hơn Anh Thơ; hiểu hơn vì mến hơn. Thơ Bàng Bá Lân và Bức tranh quê đều là những bông hoa khả ái từ xa mới đưa về, nhưng bông hoa Bàng Bá Lân ra chiều đã thuộc thủy thổ hơn, cho nên sắc hương nó cũng khác”. Xuất hiện cùng thời với những thi sĩ của phong trào Thơ Mới như Huy Thông, Nguyễn Vỹ, Lan Sơn, Đỗ Huy Nhiệm, Thế Lữ, Nguyễn Nhược Pháp, Phan Văn Dật, Đông Hồ, thời kỳ đầu Bàng Bá Lân cũng ảnh hưởng lối thơ phương Tây. Thế nhưng càng về sau, thơ ông càng trở về gần với ca dao.

"Ký ức hiện hình": Trái tim của người nghệ sĩ 17/9/2024

Truyện ngắn chúng ta vừa nghe kể về hai người họa sĩ làm nghề vẽ ảnh truyền thần. Đó là chú Thuận và người học trò mà chú hết lòng truyền dạy, cũng là nhân vật xưng Tôi và kể lại câu chuyện này: Tý. Như lời tự bạch của Tý, anh là người duy nhất của thị trấn còn theo nghề này, ngỡ như không thể cạnh tranh nổi với các hiệu ảnh kỹ thuật số đang đầy dẫy trên thị trường. Thế nhưng Tý vẫn sống được với nghề và vẫn có khách, đặc biệt là các khách Tây. Từ bức vẽ truyền thần chính người thày của mình, chú Thuận, có thể nói Tý đã bước sang một giai đoạn khác của cuộc đời, tự sống và vươn lên với nghề. Qua câu chuyện mà tác giả kể lại, ta có thể cảm nhận được một điều quan trọng, đó là cho dù làm bất cứ nghề gì, muốn thành công được chắc chắn phải có một tình yêu tha thiết, bền bỉ, sâu nặng. Người không phụ nghề thì nghề mới không phụ người. Với nghề vẽ truyền thần này, vẽ giống thôi chưa đủ mà phải vẽ ra được thần thái nhân vật và làm cho người thân của nhân vật xúc động. Tý đã hơn một lần làm được điều ấy, đặc biệt là trong tình huống bà cụ mẹ liệt sĩ nhờ anh vẽ con trai mình mà không hề có một tấm ảnh nào, tất cả chỉ dựa trên lời kể. Hoàn thành bức tranh này có thể nói là thử thách lớn nhất đối với anh Tý từ trước đến nay, một điều tưởng như không thể làm nổi. Thế nhưng anh đã vẽ bằng tất cả tình yêu thương, sự chia sẻ với bà mẹ và lòng kính trọng về một người lính đã ngã xuống vì tổ quốc. Cao trào của truyện, dư âm của truyện để lại cũng nằm ở tình huống – sự kiện độc đáo này. Người thợ vẽ ảnh truyền thần ấy có trái tim của một nghệ sĩ đích thực. Truyện ngắn Ký ức hiện hình của nhà văn Trần Quốc Cưỡng vì thế cũng mang ý nghĩa giáo dục to lớn cho mỗi con người trong cuộc sống và lao động mỗi ngày.

Tiếng thơ, tiếng lòng trong bão lũ

Tiếng thơ, tiếng lòng trong bão lũ 16/9/2024

Những ngày qua, cơn bão Yagi và những trận lũ lụt đã và đang tàn phá nặng nề nhiều tỉnh thành phía Bắc nước ta. Hậu quả để lại là bao đau thương, mất mát không dễ gì nguôi ngoai. Liên tiếp những tin tức giông bão, lũ lụt, thiệt hại, gãy đổ, ngập úng, sạt lở đè nén bao trái tim thương cảm. Chúng ta cùng lắng lại trong những vần thơ viết về giông bão, lũ lụt, nhất là cảm xúc còn tươi ròng trong các sáng tác ra đời thời gian gần đây.

Trăng trong thơ kim cổ

Trăng trong thơ kim cổ 12/9/2024

Vầng trăng tự bao đời đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các tác phẩm văn học nghệ thuật, trong đó có thi ca. Trăng vừa là một vẻ đẹp huyền diệu của đất trời, vừa là nơi để những người nghệ sĩ ký thác, gửi gắm bao nỗi niềm tâm sự buồn vui. Nhân dịp Tết trung thu năm nay, chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật (VOV6), Đài Tiếng nói Việt Nam xin được dành một cuộc trò chuyện với chủ đề: Trăng trong thơ kim cổ.

“Gió đồng đêm năm ấy”: Ấm áp tình người

“Gió đồng đêm năm ấy”: Ấm áp tình người 11/9/2024

Truyện ngắn đưa chúng ta trở lại những ngày đất nước bắt đầu mở của với nhiều đổi thay. Nhân vật Dũng và chị Riềng là đôi bạn thân từ nhỏ. Dũng đã chứng kiến niềm vui, nỗi buồn của chị Riềng. Là người con gái xinh đẹp, giỏi giang nhưng sinh ra trong một gia đình không tốt đẹp nên chị Riềng gặp nhiều trắc trở, tổn thương. Vì tai tiếng của cha mẹ mà tình duyên giữa chị Riềng với người yêu là anh Cường đổ vỡ. Đau khổ vì không lấy được anh Cường lại bị cha mình chút nữa làm nhục, chị Riềng bỏ làng ra đi. Mấy chục năm sau, Dũng với chị Riềng mới gặp lại nhau và nhiều bí mật được hé lộ. Truyện ngắn viết về đời thường nhưng lôi cuốn người đọc bởi không ít chi tiết ấn tượng, bất ngờ thú vị. Đoạn tả Dũng bắt con đỉa trên ngực chị Riềng khiến chàng thanh niên lần đầu tiên nhìn thấy thân thể một người phụ nữ dường như là sự kiện khiến mối quan hệ giữa hai người bỗng trở nên khác biệt. Việc chị Riềng hận lão Hoàng nhưng âm thầm để chồng là anh Thắng trở thành con nuôi của cha khiến chúng ta hiểu hơn lòng vị tha của một người phụ nữ. Suốt mấy chục năm xa cách Dũng mới biết được cái đêm mặn nồng giữa mình và chị Riềng lại có một đứa bé. Sau mấy chục năm xa cách, tất cả khúc mắc, bí mật được giải tỏa, ba nhân vật bình thản đón nhận những sự kiện như một điều bình thường của cuộc sống. Thời gian trôi đi, câu chuyện về 3 nhân vật lắng lại trong tâm trí chúng ta là sự ấm áp của tình người.

Phong dao về tình yêu của Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu

Phong dao về tình yêu của Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu 11/9/2024

Xét về số lượng phong dao, có lẽ thi sĩ Tản Đà chỉ thua Á Nam – Trần Tuấn Khải. Theo thống kê, ông có khoảng hơn 50 bài trong khi Á Nam Trần Tuấn Khải có 91 bài phong dao in trong các tuyển tập tác phẩm. Cả Tản Đà và Trần Tuấn Khải đều là những trí thức Nho học tiến bộ, đều là những người con yêu quê hương tha thiết và cơ bản là đều chịu nhiều ảnh hưởng của nền văn học truyền thống của dân tộc. Hai ông đã kế thừa những tinh hoa văn học dân tộc, đặc biệt là ca dao dân ca truyền thống để hình thành nên phong vị văn chương ấn tượng. Tình yêu đôi lứa, cũng là một đề tài quen thuộc, chiếm hơn một nửa trong các sáng tác thể loại này của Tản Đà. Phong dao viết về tình yêu của ông đa dạng, giàu sắc thái, cho thấy trải nghiệm về cuộc đời, nhân sinh.

Mã QRCODE xem trên mobile
chương trình hôm nay
08h00 - 08h30 Đối thoại mở
10h45 - 11h00 Văn nghệ thiếu nhi
13h00 - 13h30 Đọc truyện dài kỳ
14h30 - 15h00 Hành trình sáng tạo
18h15 - 18h30 Văn nghệ thiếu nhi
18h30 - 19h00 Đối thoại mở
19h00 - 19h30 Đọc truyện dài kỳ
19h30 - 20h00 Sân khấu truyền thanh
21h45 - 22h00 Kể chuyện và Hát ru cho bé
22h30 - 23h00 Tiếng thơ