
Truyện ngắn “Bão lốc” có hai nhân vật chính và hai bối cảnh chính, được đặt trong sự tương phản rõ ràng. Một bên là ông Rao, có tiền bạc, có địa vị, một bên là một người phụ nữ ăn mày hèn mọn đói rách; một bên là toa tàu ấm áp, một bên là nhà ga tồi tàn, xiêu vẹo trong cơn bão lốc. Hai con người, dẫu có trò chuyện đôi câu, vẫn là hai thế giới khác biệt, không hề có điểm chung. Giữa họ không chỉ sự ngăn cách giàu nghèo mà còn là sự khác biệt về tầng lớp xã hội với nhiều nghi kị và định kiến. Một sự tình cờ, chính xác hơn là một cơn bão, đã cuốn hai con người xa lạ lại với nhau, cho họ cơ hội để hiểu và thông cảm cho nhau. Ông Rao đã bớt đi vẻ dửng dưng, còn người phụ nữ, dù thật lòng hay không, cũng đã giúp ông Rao vượt qua nỗi sợ hãi ban đầu…Truyện được xây dựng chủ yếu thông qua ngôn ngữ đối thoại và cách tạo tình huống. Tác giả đẩy nhân vật vào hiểm cảnh để họ buộc phải bộc lộ con người thật của mình. Bên cạnh đó, nhà văn không có ý định nhào nặn ông Rao hay người phụ nữ ăn mày theo kiểu chính diện – phản diện. Họ đơn giản là những con người, có thói hư tật xấu, và dĩ nhiên, có cả sự thiện lương. Kết truyện bất ngờ, có phần nghiệt ngã cho người ăn mày nhưng lại là bước ngoặt của nhân vật ông Rao. Một điều gì đó trong ông đã thay đổi, và chắc hẳn sẽ theo ông suốt cả cuộc đời…
Hà Nội xưa nay vẫn là một đề tài lớn trong thơ hiện đại nước ta. Nhiều nhà thơ đã trở nên thành danh với những thi phẩm về đề tài này. Những năm gần đây, một bộ phận tác giả nữ ghi dấu ấn với những trang thơ viết về Hà Nội. Những suy ngẫm về Hà Nội của thơ nữ đương đại có những điểm nhấn ra sao? Mời các bạn cùng cảm nhận qua ghi nhận của BTV chương trình.

Kết thúc những câu cuối cùng của truyện ngắn “Đời khổ”, nhà văn Nguyễn Khải ghi lại thời gian hoàn thành sáng tác này, đó là thời điểm Mùng 2 Tết Canh Ngọ. Có lẽ đó là năm Canh Ngọ 1990 chăng? Những năm ấy, Hà Nội vừa bước vào thời kỳ đổi mới, vẫn còn ảnh hưởng thời bao cấp, nhịp sống vẫn còn nét bình yên và giản dị. Một truyện ngắn viết và có lẽ hoàn thành trong những ngày đầu năm lại mang không khí buồn lặng. Từng thay đổi trong cuộc đời nhân vật trôi chảy theo từng mốc thời gian gắn liền với không khí Hà Nội những năm sau khi tiếp quản Thủ đô, năm 1965 khi Mỹ ném bom miền Bắc, khi đất nước tạm ngưng bom đạn rồi những năm sau ngày đất nước thống nhất và chớm đổi mới. Qua từng trang văn, cuộc đời người phụ nữ nhỏ nhoi ở xóm bãi sông Hồng cũng là hàng xóm cũ của người kể chuyện hiện lên với tâm tình và cảnh ngộ thật đáng buồn, đáng thương. Bà mang nỗi mặc cảm thân phận cập kênh không tương xứng với người chồng Thiếu tá, tiếng có chồng làm cán bộ, có lương mà suốt cả cuộc đời chắt bóp, lam lũ, hơn bảy chục tuổi vẫn sống cùng hai người con gái quá lứa lỡ thì, phải sớm hôm làm lụng nuôi người con trai dở điên dở dại. Bằng lối văn tả thực, câu văn dài ngắn đan xen theo tình tiết, diễn biến câu chuyện, tác giả liên tục đưa người đọc, người nghe trở đi trở lại hai khoảng sáng và tối trong cuộc sống kéo dài mấy mươi năm của nhân vật người phụ nữ xóm bãi đã trở nên lạc thời. Vậy đó, có những phận người vẫn lặng lẽ sống, một cuộc sống khuất lấp, buồn khổ lê thê qua nhiều thời đoạn ngay trong thành phố hết thời chiến rồi đến thời bình. Qua từng trang văn khúc chiết, tỉnh táo, người kể chuyện không hề để lộ cảm xúc, cho tới câu kết như một nỗi xót xa, ai oán thay cho số phận nhân vật của mình – Những câu kết viết vào ngày đầu năm Canh Ngọ, khoảnh khắc mùa Xuân mới sang mà lòng người vẫn trĩu nặng nỗi niềm…
Ngày nay hầu hết các dòng sông chảy qua địa phận thành phố Hà Nội đã thu hẹp dần, có nhiều biến đổi so với những gì được miêu tả trong các câu ca dao xưa. Tìm về những câu ca này, người hôm nay thấy được khi xưa sông Hồng, sông Tô Lịch, sông Nhuệ và bao dòng chảy qua đất kinh kỳ đã từng trong xanh, nên thơ ra sao. Những dòng sông Hà Nội bao đời nay cũng là nguồn cảm hứng cho biết bao áng văn thơ lưu danh thiên cổ.

Truyện ngắn Người săn gấu kể về cuộc đời của Thim, từ lúc còn là một chàng thanh niên vạm vỡ, nổi tiếng cả vùng về tài săn gấu cho đến khi trở thành một ông già mái tóc điểm bạc, làm chân đưa thư lưu động đã hơn 30 năm. Câu chuyện được kể lại cũng một phần lý giải tại sao ông Thim cả đời không lập gia đình, cũng không công tác ở nơi nào quá 3 năm. Hóa ra, mục đích sâu xa của ông là mong tìm lại được người con gái năm xưa, cô Phón, người đã dành cho ông một tình yêu trong trắng, ngây thơ, không tính toán, một tình yêu dũng cảm không sợ hãi bạo lực cường quyền cho dù phải hy sinh đến thế nào chăng nữa. Những hủ tục, lề thói và sự phân biệt tầng lớp trong xã hội cũ đã khiến hai người không thể đến được với nhau. Thim sau đó đi theo cách mạng để có một cuộc đời mới. Mô-típ này có thể khiến chúng ta liên tưởng đến Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài khi mối tình của hai nhân vật chính cũng trải qua hai thời kỳ là trước và sau khi làm cách mạng. Có điều ở Vợ chồng A Phủ, mỗi người nghe người đọc sớm nhận thấy cái kết có hậu trong cuộc đời hai nhân vật chính. Còn ở Người săn gấu của Cao Duy Sơn, nhân vật Thim phải trải qua mấy chục năm lặn lội tìm người xưa, như là một sự thử thách lớn lao tình cảm của con người. Một cái kết mang đến đầy hy vọng khi trên một bức thư Thim nhận được có tên Sầm Thị Phón. Và chúng ta thầm tin cho một cái kết hạnh phúc của cuộc trùng phùng giữa Phón và Thim. Truyện ngắn Người săn gấu của Cao Duy Sơn mang đến nhiều xúc động cho người nghe, người đọc, như một bản tụng ca về tình nghĩa thủy chung của bao lứa đôi trên cuộc đời này. Dù phải trải qua muôn ngàn khó khăn trắc trở, chỉ cần có một niềm tin, nhất định sẽ có ngày họ gặp lại nhau.
Nhà văn Cao Duy Sơn tên thật là Nguyễn Cao Sơn, sinh năm 1956 tại Cô Sầu, Trùng Khánh, Cao Bằng. Ông tốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du Hà Nội năm 1989. Năm 1992 về công tác tại Đài phát thanh Truyền hình Cao Bằng. Năm 2001 chuyển công tác sang Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Cao Bằng. Năm 2003 chuyển công tác về Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Cao Duy Sơn là người trung thành với đề tài miền núi và đã nhận được nhiều giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Ông đã xuất bản hàng chục tập tác phẩm gồm tiểu thuyết và truyện ngắn, trong đó tập Ngôi nhà xưa bên suối giành giải thưởng HNVVN, vừa giành giải thưởng Văn học Đông Nam Á năm 2009. Năm 2017, Cao Duy Sơn nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Trong chương trình Đọc truyện đêm khuya lần này, chúng tôi xin được gửi tới quý thính giả phần đầu truyện ngắn của ông mang tên Người săn gấu.
Trong các cây bút thơ nữ đương đại, Vi Thùy Linh là cái tên sớm gây được sự chú ý ngay từ khi mới xuất hiện. 17 tuổi đã đoạt Giải thưởng Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế và Tạp chí sông Hương. 19 tuổi xuất bản tập thơ đầu tiên. Ngoài 20 tuổi được một loạt các nhà thơ, nhà văn, nhà phê bình tên tuổi viết bài tán thưởng như: Dương Tường, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Huy Thiệp, Thanh Thảo, Trần Đăng Khoa, Chu Văn Sơn. Vi Thùy Linh là nhà thơ đầu tiên được mời thực hiện một đêm thơ riêng tại Paris mang tên Tình tự Hà Nội. Vi Thùy Linh cũng là nhà thơ đầu tiên tổ chức trình diễn một đêm thơ tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Cho đến nay, chị đã xuất bản tất cả 7 tập thơ Chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật (VOV6) lần này xin được dành một cuộc trò chuyện về chân dung thơ Vi Thùy Linh với tên gọi: Vi Thùy Linh – Còn lại một ái thành
Hà Nội từ xa xưa đã là trung tâm kinh tế, chính trị xã hội của đất nước, được đất trời ưu ái lại là nơi hội tụ tinh hoa mọi vùng miền nên hội tụ nhiều của ngon vật lạ. Và từ bao đời nay, những địa danh, vùng đất cội nguồn của các đặc sản ấy đã đi vào nhiều câu ca dao. Rất nhiều câu trong số đó đã trở thành câu cửa miệng, thành “căn cước” riêng của các làng, các phố của Hà Nội.
Lâu nay, các tác phẩm của nhạc sĩ Phú Quang, đặc biệt là những bản tình ca về Hà Nội được đông đảo công chúng yêu âm nhạc mến mộ. Bên cạnh những bản nhạc phim, các bản khí nhạc, nhạc không lời và ca khúc tự viết lời, nhạc sĩ Phú Quang đã phổ nhạc cho nhiều thi phẩm. Tên tuổi của các nhà thơ Phan Vũ, Dương Tường, Hoàng Hưng, Phạm Thị Ngọc Liên, Hồng Thanh Quang, Giáng Vân, Thảo Phương, Thanh Tùng, Nguyễn Trọng Tạo, Hữu Thỉnh… thêm sâu đậm trong làng thơ qua sự chắp cánh của âm nhạc Phú Quang. BTV chương trình đã có những cảm nhận về Hà Nội qua các thi phẩm phổ nhạc của người nhạc sĩ tài hoa.

Trong “Chiếu dời đô” tự tay vua Lý Thái Tổ thảo năm 1010 có đoạn ghi về mảnh đất: “Ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam, bắc, đông, tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tốt tươi, phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thật là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời”. Tương truyền, khi thuyền ngự vào sông gần nơi được xem là “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời” thì rồng vàng cuộn sóng bay vút lên trời, nhà vua đặt tên cho thành là Thăng Long. Mang vận mệnh Kinh thành của một quốc gia luôn phải đối mặt với binh đao, lửa đạn, Thăng Long - Hà Nội luôn cháy lên khát vọng rồng bay từ một nền văn hiến ngàn đời. Trải qua biến thiên của lịch sử, “chất Kinh kì” và “chất Kẻ Chợ” song hành ở đất và người Thăng Long - Hà Nội và là khía cạnh đặc trưng của vùng đất này. Điều đó được thể hiện rõ nét trong nhiều áng ca dao
Trong các cây bút thơ đương đại thuộc thế hệ cuối 7x đầu 8x, Bùi Việt Phương là một giọng điệu gây được nhiều sự chú ý. Bắt đầu được biết đến từ phong trào thơ sinh viên ở Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Bùi Việt Phương trong 5 năm gần đây đã công bố tới 2 tập thơ, trong đó tập Ngày lạ (NXB Hội Nhà văn, 2019) dành giải C – giải thưởng Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Sau khi tốt nghiệp đại học, Bùi Việt Phương về Hòa Bình công tác và hiện là Phó TBT Tạp chí Văn nghệ Hòa Bình. Chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật (VOV6), Đài Tiếng nói Việt Nam lần này xin được dành một cuộc trò chuyện với tên gọi: Bùi Việt Phương – Trên sông con đò làm xước sương mai.

Quý vị và các bạn thân mến, truyện ngắn như lời ru buồn về ba người phụ nữ là A mí (danh xưng gọi mẹ của người dân tộc Tây Nguyên), chị Rêu và Đót. Trái ngược với chị Rêu là người con gái sôi nổi, hát hay và hướng ngoại thì Đót là cô gái có phần ít nói và chỉ muốn gắn bó với buôn làng của mình. Chị Rêu không phải con đẻ của A mí, Ama nối dây với A mí khi chị đã gần 10 tuổi. Ama mất sớm khiến A mí phải gồng gánh cả gia đình trên đôi vai nhỏ không có thời gian chăm sóc Đót. Từ bé Đót đã gắn bó với chị Rêu, chứng kiến chị trưởng thành xinh đẹp rồi rời buôn làng lên thành phố. Chị Rêu rất yêu mến Đót nhưng lại có phần xa cách với A mí. A mí chỉ biết dấu nỗi buồn vào lòng, nỗi buồn nhân đôi khi chị Rêu bỏ làng hướng theo ánh hào quang của thành phố. Ngày A mí mất chỉ có Đót lẻ loi lo cho đám tang của mẹ. Đót lên thành phố tìm chị Rêu để chị về dự lễ cải mả cho A mí, một tập tục quan trọng của nhiều dân tộc Tây Nguyên nhưng không gặp chị. Ngày làm lễ cải mả cho A mí, chị Rêu bất ngờ xuất hiện khiến Đót vô cùng bất ngờ, vui mừng. Truyện ngắn được viết với ngôn từ, hình ảnh đậm đà nét văn hóa các dân tộc Tây Nguyên như một câu chuyện đượm buồn mà các già làng thường kể bên bếp lửa cho con cháu nghe. Xuyên xuốt câu chuyện là hình ảnh cây Kơ nia, một loài cây linh thiêng ở Tây Nguyên. Cây kơ nia cao lớn, mạnh mẽ nhưng cũng rất cô độc đứng đó chứng kiến nỗi buồn của A mí phải lấy chồng khi có biết bao ước mơ dang dở, chứng kiến niềm thương mến của Ngong, chàng trai tài giỏi với chị Rêu, chứng kiến nỗi lòng của Đót. Tâm hồn Đót gắn bó với buôn làng và lúc nào cũng mong muốn người thân yêu thương nhau. Đót buồn khi chị Rêu ham mê cuộc sống hào hoa nơi thành phố nhưng cũng vui mừng khi chị đã vượt qua sự xa cách để trở về chịu lễ cải mả cho A mí. Truyện ngắn giúp người đọc, người nghe hiểu hơn đời sống, phong tục, tập quán của những dân tộc thiểu số trên mảnh đất Tây Nguyên tươi đẹp.

Nghe xong truyện ngắn này của nhà văn Nguyễn Phú, hẳn chúng ta còn nhớ đến câu ca dao xưa: “Cầm vàng mà lội qua sông/ Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”. Mối tình đẹp của Sỏa và Sình bị ngáng trở bởi những lề lối, luật tục và cả sự tham lam, ích kỷ của những người thân. Sự ngáng trở, chia rẽ đó đã trở thành vết thương lòng cho người trong cuộc, nhất là người phụ nữ. Dù có bị xa cách, bị thời gian bỏ lại trong cô quạnh nhưng lời hứa năm xưa và niềm tin mãnh liệt đã cho nhân vật bà Sỏa có động lực để vượt qua mọi bão gió, đớn đau để chờ đợi người yêu trở về. Bà Sỏa chờ người yêu từ khi tóc còn xanh cho đến khi tóc đã điểm bạc, từ một cô gái tay không đến khi thành một người phụ nữ có cả trăm con bò... Có những lúc lòng gợn sóng, tự đặt câu hỏi về sự biệt tăm của người yêu, rồi lại tự trấn an mình, người phụ nữ đáng thương ấy lúc nào cũng hướng về người yêu xưa với lời ước hẹn năm cũ. Rồi khi không thể ngồi yên được, bà Sỏa đã dắt những bò xuống các chợ quanh vùng để tìm kiếm người yêu. Qua rất nhiều năm như thế, rồi đến một mùa xuân kia, bà xuống chợ và số phận đã cho bà gặp lại người cũ. Nhưng đó là một cảnh huống trớ trêu và bẽ bàng: người yêu năm xưa của bà đã trở thành một lão già ốm yếu đớn hèn, mấy chục năm chấp nhận cuộc đời tầm gửi trên gấu váy một người đàn bà giàu có khác. Niềm tin, tình yêu trong người đàn bà đau khổ đã hoàn toàn sụp đổ. Mà niềm tin và tình yêu là lẽ sống của cuộc đời bà, giờ nó không còn nữa thì cuộc đời bà cũng chẳng có ý nghĩa gì. Cuối truyện người đàn bà biến mất như tình yêu, niềm tin biến mất trong bà. Nghệ thuật dựng truyện, miêu tả sâu tâm lý nhân vật kết hợp sử dụng ngôn ngữ phù hợp với đặc trưng tâm lý đồng bào dân tộc Mông, giọng văn đầy thương cảm và nghệ thuật ẩn dụ (hình ảnh con bò) đã góp phần làm nên thành công của truyện ngắn này.
Cùng thời với thi sĩ Bàng Bá Lân, nhà lý luận văn học Đinh Gia Trinh cho rằng: “Bàng Bá Lân là một nhà thơ có thể tiến bộ hơn nữa về nhạc điệu; ông ưa tả những niềm tình của thời xưa, những tâm lý đơn giản ở thôn quê và thi vị của đồng nội”.Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân viết về Bàng Bá Lân như sau: “Bàng Bá Lân gần Anh Thơ hơn gần Nguyễn Bính. Bàng Bá Lân cũng ít sống trong tình quê nhưng người hiểu cảnh quê hơn Anh Thơ; hiểu hơn vì mến hơn. Thơ Bàng Bá Lân và Bức tranh quê đều là những bông hoa khả ái từ xa mới đưa về, nhưng bông hoa Bàng Bá Lân ra chiều đã thuộc thủy thổ hơn, cho nên sắc hương nó cũng khác”. Xuất hiện cùng thời với những thi sĩ của phong trào Thơ Mới như Huy Thông, Nguyễn Vỹ, Lan Sơn, Đỗ Huy Nhiệm, Thế Lữ, Nguyễn Nhược Pháp, Phan Văn Dật, Đông Hồ, thời kỳ đầu Bàng Bá Lân cũng ảnh hưởng lối thơ phương Tây. Thế nhưng càng về sau, thơ ông càng trở về gần với ca dao.