Trong ca dao đối đáp tình yêu nam nữ, cũng phong phú và dồi dào không kém sự thông minh, nhạy bén, đáo để và chua ngoa của phái nữ là những câu đáp trả tinh vi của các chàng trai. Họ là những anh chàng không phải tay vừa, cũng chua ngoa, đanh đá không thua gì phái nữ.
Nhìn lại thế hệ những cây bút trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, không thể quên gương mặt thơ độc đáo Trần Đăng Khoa, người được coi là thần đồng của làng thơ Việt với những bài thơ đầu tiên được đăng báo khi Trần Đăng Khoa mới 8 tuổi. Tập thơ Góc sân và khoảng trời được tái bản liên tiếp suốt mấy chục năm qua để đến với hàng triệu bạn đọc trên cả nước. Kể từ 1975, Trần Đăng Khoa nhập ngũ và có thêm nhiều sáng tác mới, mang dấu ấn của một thời kỳ trưởng thành. Trong quá trình công tác, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã có thời gian 7 năm làm việc tại Đài Tiếng nói Việt Nam, lần lượt giữ các chức vụ: Trưởng Ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ phát thanh có hình VOVTV, Phó Bí thư thường trực Đảng ủy. Ông đã có những đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của các chương trình Văn học nghệ thuật trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam. Trong những ngày tháng 9 này, cũng là tháng có ngày kỷ niệm thành lập Đài, chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật (VOV6) xin được dành một cuộc trò chuyện về chân dung nhà thơ Trần Đăng Khoa với tên gọi: Trần Đăng Khoa – Phía sau những khoảng trời
Những câu thơ tượng hình từ hình ảnh ký ức tuổi thơ luôn có một sức lay động riêng. Còn nhớ trong cuộc thi thơ kéo dài hai năm 2019 đến năm 2020 trên báo Văn Nghệ, chùm thơ đoạt giải Ba của tác giả Nguyễn Thị Kim Nhung rất giản dị nhưng lại gieo vào lòng độc giả nhiều dư vị. Trong đó, bài thơ có nhan đề “Dần sáng” được tác giả tự nhận là sáng tác ưng ý nhất của chị.
Trong đề tài ca dao đối đáp thì những cặp ca dao có nội dung đối đáp (theo kiểu “ăn miếng trả miếng”) được đánh giá là mảng hay nhất, thú vị nhất. Theo Tiến sĩ La Mai Thi Gia, những câu nói qua nói lại, vặn qua vặn lại, đá qua đá lại… của các cặp nhân vật trữ tình trong mảng ca dao này đã thể hiện được đầy đủ tính cách chất phác, nghịch ngợm, dí dỏm của người bình dân. Những câu đối đáp sắc sảo là kết tinh của sự thông minh, đáo để, bộc trực, thẳng thắn của người dân lao động. Đặc biệt, ca dao xưa đề cao sự nhanh nhạy của người phụ nữ, thể hiện qua những lời đối đáp hết sức thông minh, khôn ngoan, khéo léo.
“Vọng khúc tương tư” là một truyện ngắn của Tống Phước Bảo có dáng dấp “bi kịch lạc quan” như thế. Bối cảnh câu chuyện là một miền quê sông nước Tây Nam Bộ. Nhân vật không nhiều, gói gọn trong bốn nhân vật chính với hai câu chuyện tình: một trẻ trung chớm nở và một lỡ làng, muộn màng nhưng đều giống nhau ở một điều: đã thương thì thương hết mình, hết lòng hết dạ, thương mà không cần nói, chỉ mong ngóng cho người mình thương được những điều tốt lành. Và vì nỗi niềm thương ấy mà những nhân vật đã gắn bó cuộc đời với nhau, sống vì nhau. Trong tiếng miền Nam ngày trước và cho đến tận bây giờ, thương tức là yêu. Mà thậm chí thương còn có nghĩa rộng hơn cả yêu với nhiều sắc thái tình cảm khác nhau, nhiều đối tượng khác nhau. Nghe chữ thương thấy có cả nghĩa, cả tình đằm thắm trong đó. Còn yêu thì… chưa chắc. Miền Bắc thì phân biệt thương và yêu rất rõ ràng. Tình thương khác với tình yêu. Nhưng miền Nam thì không phải thế. Người miền Nam không sử dụng từ “yêu”, mà sử dụng từ “thương”, bởi vì thương là thương nhớ miên man, là lo toan chăm bẵm, là yêu thương từ trong sâu thẳm mà không cần nói ra. Thương ở đây là vượt lên trên tình yêu nam nữ thông thường. Vì thương đứa trẻ bị bỏ rơi nên tía của Song Lang mới “thương phận mà đem về dung dưỡng. Nghèo khổ giăng tứ bề với cái nghề xướng ca rày đây mai đó của tía, vẫn nguyện lòng bảo bọc nó đến tận bây giờ.” Và cũng vì thương tía nên Song Lang giấu đi giấy báo trúng tuyển đại học.Vì thương tía nên Song Lang nhìn cô bạn thanh mai trúc mã Út Thà vào đại học với niềm mong ngóng.
Như tiếng đờn của tía Song Lang vọng xuống một nhịp buồn, đánh rớt trái tim con người, sự âm thầm hy sinh cho nhau của những phận người khiến cho người đọc cũng khắc khoải theo từng con chữ của nhà văn. Cô Tư Lành thiếu phụ xế bóng vẫn âm thầm mang trọn chữ thương với tía của Song Lang mà chẳng dám mong chờ ngày duyên phận thôi dang dở, bởi ngày xưa thì đã quá xa. Nhưng “nếu đã là thương, thì trọn cuộc đời cũng cứ thương. Giờ xế bóng heo may chạm tuổi đời, hổng lẽ để tiếng đờn mãi thắt thẻo bên kia sông. Còn bên này sông, lại thêm một người dằn vặt những xa xót. Ai cũng chỉ có duy nhất một cuộc đời này, để sống và để thương.” Vậy nên những phận đời buồn trong truyện ngắn “Vọng khúc tương tư” đã vì thương mà âm thầm hy sinh, lo lắng cho đời nhau, nhưng cũng vì thương mà đã bước qua những ngập ngừng e ngại, những băn khoăn tình cảm, khúc mắc ngại ngần để đến được với nhau. Một truyện ngắn mở đầu bằng một quyết định buồn của nhân vật, tưởng sẽ là bi kịch nhưng cuối cùng lại là “bi kịch lạc quan” và người đọc khi xem xong những dòng chữ cuối cùng, sẽ thở phào nhẹ nhõm, sẽ thấy rằng cuộc đời tuy buồn, nhưng không buồn nhiều đến thế, rằng cuộc đời vẫn còn có những điều đáng sống, những hy sinh rồi sẽ được đáp đền, tình thương sẽ gặp gỡ tình thương.
Bằng giọng văn đặc sệt những phương ngữ đặc thù của miền Tây Nam Bộ, bằng câu chữ được kể theo một cách chậm rãi, rề rà rất miền Tây, bằng những chi tiết đặc thù của miền sông nước như tiếng đờn cò, dề lục bình trôi dạt trên sông, mớ bông điên điển vàng hươm, mớ tép đồng, rặng bần… “Vọng khúc tương tư” của nhà văn Tống Phước Bảo là một truyện ngắn đầy ắp niềm thương, khiến cho độc giả cũng nao lòng, chơi vơi theo tâm trạng của nhân vật, để rồi gật gù tán thưởng với cách kết thúc truyện đậm chất tình của người miền Tây. Một truyện ngắn thành công là một truyện ngắn gợi được cảm xúc và “Vọng khúc tương tư” đã thật sự trở thành “Vọng khúc thương” trong lòng độc giả. (Lời bình của BTV Vân Khánh)
Theo đuổi đề tài lịch sử nhưng rất khó xác định “Ký ức phủ sương” viết về một giai đoạn cụ thể nào. Câu chuyện về vị tướng quân đầu triều hay cô gái vô danh không đưa ra bất kì một chi tiết nào về một dấu mốc rõ ràng. Dường như tác giả Đào Thu Hà có ngụ ý rằng ở bất kì thời nào, vẫn luôn có những người quên mình hi sinh vì nghĩa lớn. Họ có thể được ghi danh hoặc không. Nhưng đều đã trở thành một phần của đất nước non sông. “Ký ức phủ sương” là một truyện ngắn được viết chắc tay. Sự đan cài giữa quá khứ và hiện tại buộc người đọc phải có sự tập trung nhất định mới có thể kết nối các mảnh ghép. Có nhiều hơn một cuộc đời được kể trong “Ký ức phủ sương”. Những nhân vật đều không có tên dù họ là công chúa đời trước, tướng quân đương triều hay cô thôn nữ cắn răng chịu nhục để bảo vệ người mình thầm thương… Mạch truyện chính liên tiếp được mở rộng bằng các câu chuyện nhỏ khác, tạo nên bức tranh toàn cảnh về một dân tộc anh hùng, gửi gắm một thông điệp rõ ràng rằng có những người ta không ta biết mặt nhớ tên nhưng chính họ đã làm nên đất nước… Bản thân tác giả cũng cho thấy sự chú ý trong việc xây dựng và lựa chọn chi tiết như màn sương giăng kín một vùng trắng xóa hoặc loại rượu Không Tên phủ lên hiện thực màu sắc của huyền thoại. Từ đó, góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. (Lời bình của BTV Nguyễn Hà)
Theo đuổi đề tài lịch sử nhưng rất khó xác định “Ký ức phủ sương” viết về một giai đoạn cụ thể nào. Câu chuyện về vị tướng quân đầu triều hay cô gái vô danh không đưa ra bất kì một chi tiết nào về một dấu mốc rõ ràng. Dường như tác giả Đào Thu Hà có ngụ ý rằng ở bất kì thời nào, vẫn luôn có những người quên mình hi sinh vì nghĩa lớn. Họ có thể được ghi danh hoặc không. Nhưng đều đã trở thành một phần của đất nước non sông. “Ký ức phủ sương” là một truyện ngắn được viết chắc tay. Sự đan cài giữa quá khứ và hiện tại buộc người đọc phải có sự tập trung nhất định mới có thể kết nối các mảnh ghép. Có nhiều hơn một cuộc đời được kể trong “Ký ức phủ sương”. Những nhân vật đều không có tên dù họ là công chúa đời trước, tướng quân đương triều hay cô thôn nữ cắn răng chịu nhục để bảo vệ người mình thầm thương… Mạch truyện chính liên tiếp được mở rộng bằng các câu chuyện nhỏ khác, tạo nên bức tranh toàn cảnh về một dân tộc anh hùng, gửi gắm một thông điệp rõ ràng rằng có những người ta không ta biết mặt nhớ tên nhưng chính họ đã làm nên đất nước… Bản thân tác giả cũng cho thấy sự chú ý trong việc xây dựng và lựa chọn chi tiết như màn sương giăng kín một vùng trắng xóa hoặc loại rượu Không Tên phủ lên hiện thực màu sắc của huyền thoại. Từ đó, góp phần tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm. (Lời bình của BTV Vân Khánh)
Ký ức tuổi thơ luôn là một hoài niệm đẹp trong nỗi nhớ của chúng ta. Cái thời hồn nhiên ngây thơ chẳng phải lo toan bất kỳ điều gì, rong chơi cùng lũ bạn từ sáng sớm đến lúc chiều tàn, rồi đêm trăng cùng nhau ngồi tán chuyện quên cả lối về...Ở truyện ngắn “Mùa gió ngang vai” mà chúng ta vừa nghe, với giọng văn giọng văn trong trẻo, tự nhiên, tác giả Lê Ngọc giúp người đọc người nghe cảm nhận được rõ nhất những mảnh ký ức thời tuổi thơ ở làng quê Bắc bộ. Những khung cảnh, âm thanh, màu sắc đều được hiện lên một cách chân thực nhất: “Nắng chiếu ngoài sân. Nắng rơi mái bếp. Tiếng chim hót lảnh lót, véo von trên hàng cau ông trồng vui vẻ hát mừng. Dưới chân giàn mướp xanh mướt lấp ló đôi chùm hoa vàng tươi mời gọi đàn ong mật…”. Hay: “Mùa hè nghiêng nghiêng trút nắng vàng oi ả từ đầu trưa tới cuối chiều. Và nhiều khi nhập nhoạng tối, người ta vẫn phe phẩy quạt nan thều thào than phiền: trời ơi, nóng quá! Ấy thế mà, mùa hè lúc nào cũng thật hấp dẫn đối với tụi trẻ con. Chúng háo hức chờ đợi những khoảng trời đỏ cháy hoa phượng, chờ tiếng ve rạo rực bên tai, chờ kỳ nghỉ dài thỏa thích chạy chơi…”. Những dòng văn nhẹ nhàng như một bài thơ, người đọc người nghe được tắm mát trong câu chữ thật an yên, thanh thản. Trong số lũ bạn quê, mùa hè thường gợi nhắc Dung nhớ tới những thứ đồ ăn dân dã như que kem, cái bánh rán, cốc chè thập cẩm…Nhưng nếu chỉ có thế tác phẩm mới dừng ở dạng tản văn diễn tả ký ức tuổi thơ gắn với mùa hè. Từ những món ăn dân giã, thôn quê ấy, cả một bầu trời ký ức tuổi thơ buồn vui gắn với hình bóng người bà thân thương hiện ra trong tâm trí Dung. Bà như sợi dây liên kết tinh thần giữa Dung với chị Minh, chị Liên và anh Hạnh. Khi sợi dây ấy bị đứt thì mối liên kết có nguy cơ bị lỏng lẻo…
Với lối viết thong thả mà thấm thía, truyện ngắn “Mùa gió ngang vai” tựa như mảnh gương ký ức để khi soi mình vào đó, chúng ta chợt nhận ra những bóng hình thân thương, những món ăn bình dị, những kỷ niệm êm đềm rụng rơi theo năm tháng và cả những mất mát song hành cùng quá trình trưởng thành, lựa chọn. Vẫn biết rằng ai rồi cũng phải lớn lên, cuộc sống rồi cũng phải thay đổi, nhưng có nỗi nhớ nào mà không khắc khoải, có niềm thương nào không thổn thức con tim? Chúng ta không thể trở về nhưng có thể nâng niu, lưu giữ quá khứ, như một phương cách chữa lành sự nông nổi, nhạt nhòa của hiện tại.
Trong ca dao tình yêu nam nữ thì hình thức thể hiện chủ yếu là đối đáp giao duyên. Trong chương trình “Tìm trong kho báu” tuần trước, chúng ta đã tìm hiểu về hình thức đối đáp đầu tiên đó là đố và đáp. Tuần này, mời Quý thính giả cùng đi vào cụ thể hình thức đối đáp thứ hai, đó là hỏi và đáp. Nếu như các câu ca dao có nội dung đố và đáp nhằm mục đích chính là thách đố thì những cặp ca dao hỏi và đáp lại thể hiện khả năng ứng đáp khi thẳng thắn, có lúc lại vô cùng khéo léo của dân gian.
Chiến tranh luôn có sự mất mát, hy sinh và gian khổ. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ cứu nước cũng như chiến tranh biên giới bảo vệ tổ quốc, biết bao người con ưu tú của dân tộc đã chiến đấu anh dũng. Vì nhiều nguyên do khác nhau của chiến trường ác liệt mà khi hòa bình lập lại, có người chưa hưởng chính sách đền ơn đáp nghĩa của đất nước. Nhân vật Định chính là một trường hợp như vậy. Mới 16 tuổi Định đã khai 18 tuổi viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Những trường hợp như Định không hề hiếm trong chiến tranh khi nhiều thế hệ thanh niên hòa chung không khí hào hùng sẵn sàng ra trận chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp của đất nước. Nhưng chính vì khai sai tuổi khi nhập ngũ nên khi chiến tranh kết thúc, Định trở về cuộc sống đời thường đã gặp nhiều khó khăn trong việc làm giấy tờ hưởng quyền lợi thương bệnh binh. Gần 40 năm trôi qua, hàng chục vết thương vì bom đạn vẫn còn trên người Định. Những vết thương chiến tranh còn đó nhưng vì vấn đề giấy tờ mà Định vẫn chịu bao nỗi thiệt thòi. Vết thương trên cơ thể Định có lẽ không đau xót bằng nỗi đau trong lòng anh khi bị mọi người hiểu lầm, dè bỉu. Sau mấy chục năm mệt mỏi vì những giầy tờ, thủ tục thì có lẽ Định đã âm thầm cam chịu cuộc sống của mình. Những tâm tư tình cảm, nỗi niềm chua xót của người thương bệnh binh chịu nhiều thiệt thòi được tác giả thể hiện với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Với những người lính từng chiến đấu trên chiến trường ác liệt, được chứng kiến sự hy sinh của đồng đội thì còn sống trở về quê nhà đã là một niềm hạnh phúc. Những day dứt trong lòng Định cũng như nhiều trường hợp như anh không phải quyền lợi mà là niềm kiêu hãnh, là niềm tự hào của người lính. Có lẽ với Định, anh thấy mình vẫn còn may mắn hơn Păn, người đồng đội hy sinh không còn dấu vết sau trận pháo kích của địch. Tấm lòng của người thương bệnh binh với đồng đội khiến chúng ta không khỏi cảm động. Tác giả lựa chọn đề tài thương bệnh binh để nhắc nhở chúng ta nhớ tới công ơn bao thế hệ cha ông đã hy sinh vì cuộc sống hòa bình hôm nay. (Lời bình của BTV Hoàng Hiệp)
80 năm cuộc đời, NSND Lê Huy Quang không ngừng sáng tạo ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Trong thơ ca, ông luôn quyết liệt đổi mới. Thơ Lê Huy Quang là kết tinh của tài năng và trí tuệ, chân thành và say đắm. Còn nhớ năm 2009, ở tuổi 65, nhà thơ Lê Huy Quang in tập “Phải khác” gồm 108 bài thơ được làm trong khoảng thời gian 40 năm, từ năm 1968 đến năm 2008. “Phải khác” cũng là tâm niệm trong cuộc đời sáng tạo của Lê Huy Quang.Luôn tự thôi thúc bản thân mình phải khác, phải đổi mới, cội nguồn sáng tạo trong thơ Lê Huy Quang vẫn là những rung động trước tình yêu, tình đời, tình mẹ. Trong những tứ thơ, những câu từ có vẻ khác biệt vẫn run rẩy bao xúc cảm đời thường.
“Ngôi nhà trên núi” của nhà văn Roman Ivanytchouk đúng như nhan đề, gây cho người đọc, người nghe một cảm giác miên man, diệu vợi. Số phận người cha và người con gái như những thước phim buồn. Khung cảnh hoang vu, xa vắng của núi rừng, của quy luật cuộc sống sinh tồn tự nhiên và khắc nghiệt – Tất cả khảm vào mỗi chúng ta những cảm xúc thường tình mà vẫn rất ngưng đọng. Dịch giả Nguyễn Hữu Vỹ đã chuyển tải cơ bản chất văn đặc trưng của một nhà văn Xô viết luôn đắm mình trong thiên nhiên Nga kỳ vĩ. Khuất sau những câu văn lý trí, đầy tỉnh táo là cả một sự ngậm ngùi, xót xa cho thân phận con người. Nhà văn không tham vọng biến câu chuyện của mình trở nên kịch tính, dữ dội. Ông chọn lọc vài chi tiết, phát triển và khiến chúng trở nên ám ảnh. Diễn biến truyện ngắn là đơn tuyến nhưng cảm xúc và thân phận con người lại không ngừng biến động. Tình yêu, sự gắn bó giữa đất với người ở đây lại đẩy chính con người vào cay đắng, bi kịch. Nhưng bi kịch không kết thúc tất cả mà như sự sống mới trên đống đổ nát, như núi non sau tiết lụi tàn lại hồi sinh. Cái kết của “Ngôi nhà trên núi”, như nhiều truyện ngắn của nhà văn Roman Ivanytchouk thực sự khiến chúng ta bất ngờ, và ấm lòng. (Lời bình của BTV Võ Hà)
Kho tàng ca dao của nước ta có nhiều bài hay, sinh động, sâu sắc về đề tài tình yêu. Vận dụng khéo léo các khẩu ngữ, lối sinh hoạt, lời ăn tiếng nói hàng ngày, nhiều bài ca dao qua đối đáp đã đọng lại và lưu truyền qua nhiều đời. Chúng ta cùng tìm hiểu về thi pháp của thể loại đầu tiên trong đối – đáp là đố – đáp, tức là câu đố và câu trả lời trong đối đáp giao duyên của dân gian.
Lưu Quang Vũ viết những bài thơ đầu tiên khi mới 16 tuổi, năm 21 tuổi đã có tập thơ Hương cây – Bếp lửa in chung cùng nhà thơ Bằng Việt. Tài năng thơ của ông tiếp tục nở rộ sau đó nhưng phải cho đến sau khi ông mất, các tập thơ như Mây trắng của đời tôi (1989) và Bầy ong trong đêm sâu (1993) mới được công bố. Riêng ở lĩnh vực kịch nói, cho đến nay, Lưu Quang Vũ vẫn được coi là một đỉnh cao chưa ai có thể vượt qua khi chỉ trong vòng khoảng 10 năm, ông đã viết tới 50 kịch bản sân khấu, gây tiếng vang mạnh mẽ trong đời sống văn học nghệ thuật nước nhà. Nhân dịp kỷ niệm 35 năm ngày ông đi xa, chương trình Đôi bạn văn chương xin được dành một cuộc trò chuyện về chân dung thơ ông với tên gọi: Lưu Quang Vũ – Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi.