Hơn 40 thi phẩm trong tuyển tập thơ “Cùng Việt Nam” là tiếng nói từ tâm hồn các nhà thơ ở đất nước Tây Ban Nha gửi tới đất nước chúng ta trong thời kỳ chiến tranh ác liệt. Điều đó đã cho thấy sự nhất tâm và lòng trắc ẩn của các nhà thơ Tây Ban Nha trong tinh thần đồng hành, cổ vũ một dân tộc đang phải trải qua những đau thương, mất mát. Cao hơn nữa, đó là tinh thần phản chiến mạnh mẽ, tiếng nói lan tỏa tới cộng đồng quốc tế, giúp nhân dân thế giới hiểu thêm về phẩm chất anh dũng, quật cường, từ đó tiếp thêm niềm tin vào chiến thắng của lẽ phải, của chính nghĩa.
Những ai từng đến, gắn bó và trót “phải lòng” "đất sen hồng" Đồng Tháp đều thuộc nằm lòng những câu ca về xứ sở này. Tính cách, hồn cốt và những đặc trưng về đất và người nơi đây gói trong những vần ca dao mộc mạc, ân tình
Nhìn lại đội ngũ các nhà văn nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đã có không ít người ngã xuống nơi chiến trường, khi tài năng đang bắt đầu vào độ chín. Có thể kể đến những cái tên như Vũ Đình Văn, Chu Cẩm Phong, Nguyễn Trọng Định, Dương Thị Xuân Quý, Nguyễn Thi…Và trong số đó, không thể quên nhà thơ – liệt sĩ Lê Anh Xuân. 28 tuổi đời, tác phẩm để lại của Lê Anh Xuân mới chỉ khoảng trên dưới 60 bài thơ, một trường ca và một tập văn xuôi. Thế nhưng ông đã neo giữ tên mình vào một vị trí chắc chắn trong thi ca Việt Nam hiện đại nói chung, trong nền thơ chống Mỹ nói riêng. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước, chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật – Âm nhạc lần này xin được dành một cuộc trò chuyện về chân dung thơ Lê Anh Xuân với tên gọi: Lê Anh Xuân – Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ.
Ca dao người Việt từ xa xưa đã mở cánh cửa vào thế giới tâm linh bí ẩn của con người. Thế giới tâm linh trong ca dao được thể hiện rất đa dạng và phong phú. Niềm tin trong cuộc sống tín ngưỡng của người Việt thể hiện nhu cầu tinh thần hướng tới cái thiêng liêng cao cả và màu nhiệm.
Hơn 2 năm sau khi ra mắt tập thơ đầu tay, mới đây tác giả Vũ Trần Anh Thư, thành viên nhóm thơ Facebach giới thiệu tới công chúng ấn phẩm mới mang tên “Ban mai thơm mắt nắng”. Tập thơ dày dặn với 123 sáng tác kèm những phụ bản đẹp, đầy gợi tưởng của họa sĩ Trần Thắng. Cách quãng rồi trở lại với thơ chưa lâu nhưng Vũ Trần Anh Thư đã có nhiều sáng tác. Chị viết như để “đền bồi” lại những tháng năm đã bỏ lửng một niềm say mê từ thời thiếu nữ. Tập “Ban mai thơm mắt nắng” có tới 123 bài thơ viết bằng thể thơ 1-2-3 cho thấy Vũ Trần Anh Thư thực sự đắm đuối với một cách thể hiện mới, khi chị tìm thấy sự đồng điệu và tiếp nối.

Nhân vật Anne của truyện ngắn “Người đàn bà không quê hương” trong cách nhìn nhận của công chúng đương thời là một người đàn bà thiếu đức hạnh khi đánh mất hạnh phúc hôn nhân vì một sai lầm không đáng có. Cô phải trả giá bằng việc bị tước bỏ quyền làm mẹ, tự nguyện ly hương, sống đời lưu vong. Quá nhanh chóng, Anne bước vào một cơn mê mà bản thân không hề biết về diễn biến phía trước. Cuộc sống nay đây mai đó, tưởng rằng tự do, phóng khoáng, không vướng bận, không lo nghĩ tới ngày mai. Thế nhưng, tận sâu thẳm tâm hồn người đàn bà không quê hương vẫn còn neo giữ nỗi đau và ký ức về Tổ quốc đã ăn sâu vào máu thịt. Cô đã tự tước bỏ tất cả quá khứ, những điều còn vương vấn để bước vào một cuộc đời mới nhưng không thể nào dứt mình ra khỏi ký ức thân thuộc, đã trở thành một phần đời không thểt tách rời. Thông qua câu chuyện của người đàn bà không quê hương, một mẫu phụ nữ điển hình đã từng hết lòng vì gia đình, chồng con, vì một sự cố đáng tiếc mà trở thành kẻ tội đồ, thành đối tượng khiêu khích và giễu nhại của công chúng, nhà văn đề cập tới những định kiến đã phủ nhận và chối bỏ hoàn toàn nhân cách, phẩm giá con người. Đằng sau những câu chuyện thường tình là nỗi đau âm thầm, khôn nguôi mà người trong cuộc phải gánh chịu suốt quãng đời còn lại…
Từ xa xưa, dân gian đã coi trọng việc thờ cúng, “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Thế nhưng, lợi dụng tín ngưỡng dân gian, nhiều hiện tượng mê tín dị đoan đã nảy sinh. Từ đây, nhiều bài, nhiều câu ca dao đã ra đời, bật lên tiếng cười phê phán hết sức sâu cay.

Nhà thơ Lê Cảnh Nhạc sinh năm 1957 tại Hà Tĩnh. Tốt nghiệp Đại học tại Liên xô (cũ), Lê Cảnh Nhạc là Tiến sĩ Giáo dục học; Nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số, nguyên Tổng Biên tập Báo Gia đình và Xã hội, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Ông từng được trao Giải Nhì cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật toàn liên bang của ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô; Giải thưởng Văn học cho thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng sáng tác về Quyền trẻ em của Thụy Điển), Giải thưởng VHNT và báo chí của Bộ Quốc phòng, Giải thưởng Báo chí toàn quốc, Giải A Giải thưởng Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Tác phẩm đáng chú ý của nhà thơ Lê Cảnh Nhạc có các tập truyện “Người học trò thứ 31”, “Nỗi oan của Đốm”, “Lời ru không bán”, “Lâu đài”, tập ký “Mầm ác và hướng thiện”, các tập thơ “Khúc giao mùa”, “Không bao giờ trăng khuyết”, “Khúc thiên thai”, “Non nước đàn trời”. Tập thơ “Đi về phía mặt trời”, tác phẩm mới nhất của nhà thơ Lê Cảnh Nhạc ghi dấu ấn một chặng đường đời với nhiều suy tư, khắc khoải.
Trong thế giới cảm nhận của con người, hình ảnh hoa mang nhiều giá trị biểu trưng. Trong ca dao cổ truyền người Việt, hình ảnh hoa cũng mang đậm những hương vị, sắc màu, giá trị mới. Quá trình dịch chuyển từ thế giới sự vật trở thành thế giới cảm nhận của con người qua biểu trưng hoa trong ca dao là kết quả của cả một quá trình quan sát, trải nghiệm, tích lũy… để có được những cơ sở nhất định.
Nhắc đến những gương mặt nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoạt động và sáng tác tại Nam bộ, không thể quên Hoài Vũ. Ông sinh ra ở Quảng Ngãi nhưng cả cuộc đời lại gắn bó với miền Nam, sớm hoạt động văn học ở miền Nam với vai trò Ủy viên Tiểu ban văn nghệ khu Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định và Ủy viên thường trực Hội Văn nghệ Giải phóng miền Nam, Tổng biên tập báo Văn nghệ giải phóng. Hoài Vũ viết truyện ngắn, dịch thuật, viết báo song nổi bật nhất trong các sáng tác của ông vẫn là thơ. Nhiều bài thơ của ông có sức lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống nhân dân Nam Bộ, ông trở thành một trong những nhà thơ Nam Bộ có nhiều bài thơ được phổ nhạc nhất và được công chúng cả nước yêu thích. Nhân dịp tròn 90 năm ngày sinh của ông, chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật – Âm nhạc xin được dành một cuộc trò chuyện về chân dung thơ Hoài Vũ với nhan đề: Hoài Vũ – Thì thầm với dòng sông
Cái là một biểu tượng quen thuộc trong văn học dân gian nói chung và ca dao nói riêng. Tiến sĩ văn học La Mai Thi Gia đã bàn về tính đa nghĩa, ẩn dụ, trí tuệ của người xưa khi sử dụng biểu tượng cái giếng trong ca dao.

Các bạn thân mến, mở đầu truyện ngắn tác giả đã đưa người đọc, người nghe trở về chiến trường Miền Nam những năm cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhân vật trung úy giải phóng quân tên Huỳnh khi chiến đầu tại căn cứ Cô Pen ở Nam Lào đã có cuộc gặp mặt bất ngờ với thiếu tá ngụy quân Đinh Hạ khi giải cứu đồng đội bị địch bắt. Dường như có điều kì lạ gắn kết số phận hai người lính. Ba lần gặp gỡ Định Hạ đều mang đến những cảm xúc khác nhau với trung úy Huỳnh. Lần đầu tiên gặp Đinh Hạ, Huỳnh hiểu rằng người lính bên kia chiến tuyến cũng không phải ai cũng thích bắn giết. Lần thứ hai gặp gỡ trong cuộc hòa đàm giữa lực lượng giải phóng và ngụy quân khiến Huỳnh vui mừng phấn khởi bởi sự thấu hiểu của hai bên. Lần thứ 3 gặp mặt Huỳnh ngậm ngùi trước số phận buồn của người đồng bào lưu lạc nơi đất khách quê người. Câu chuyện nhẹ nhàng giản dị về người lính trong và sau chiến tranh khiến chúng ta xúc động bởi tình người. Chi tiết Đinh Hạ không bắn tù binh Tuyển cùng việc Huỳnh cứu giúp vợ con Đinh Hạ khiến khoảng cách của hai người nhanh chóng tan biến. Họ chỉ còn là hai người lính mong chờ chiến tranh kết thúc để trở về cùng gia đình sống yên vui, hạnh phúc. Đáng buồn là số phận đưa đẩy khiến Đinh Hạ lưu lạc sang Canada để rồi sống cô độc. Sự xuất hiện của người con rơi gợi nhớ lại biết bao kỉ niệm chiến tranh trong con người nhân vật Huỳnh. Sự hi sinh của đồng đội, cuộc gặp mặt kì lạ với kẻ thù, tình cảm quân dân, tình nghĩa con người trong cuộc sống hòa quện với nhau khiến Huỳnh xúc động. Truyện ngắn viết về chiến tranh, về người lính nhưng đậm nét nhất vẫn là tình người, tình đời. Qua câu chuyện về hai người lính, người đọc người nghe cảm nhận được nét cao đẹp của người lính Cách mạng cũng như tinh thần hòa hợp dân tộc của đất nước ta. Thời gian đã qua, chúng ta hãy quên đi quá khứ buồn để hướng tới tương lai tươi đẹp.

Với truyện ngắn này, nhà văn Nguyễn Phú cho thấy những năm tháng sống ở những vùng rẻo cao Tây Bắc của tổ quốc đã cho anh không những là hiểu biết mà hơn nữa nhuốm vào trang văn là nỗi nhớ, nỗi khắc khoải trong tâm hồn, tâm trạng. Truyện khắc họa cuộc đời của bà Ài, người đàn bà vùng cao từ thuở mới về làm dâu nhà họ Sùng đến những cơ cực của kiếp người khi làm trái ý nhà chồng, tủi phận một mình nuôi con và mang trong mình đắng đót nỗi niềm. Ngòi bút nhà văn xuất thần trong những chi tiết đặc tả niềm hạnh phúc trần thế mà cũng rất đỗi thiêng liêng thời xuân trẻ của đời người đàn bà vùng cao. Những khoảnh khắc đẹp đẽ ấy quá ngắn ngủi so với dằng dặc những buồn khổ, cực nhọc quãng đời về sau của bà Ài. Nhưng có lẽ chính vì thế mà càng thấm sâu vào ký ức. Người đàn bà vì giải thoát cho con hổ trắng mà bị đuổi khỏi nhà chồng trong khi bụng mang dạ chửa rồi cũng chính người con trai của bà một lần nữa giải cứu con hổ năm nào đưa về trung tâm cứu hộ động vật hoang dã. Truyền thuyết về cuộc đối đầu, thắng thua với loài hoang thú thôi thúc sự kìm giữ, giam cầm, hay chính sự cả tin, lòng chấp niệm của con người nơi rừng cao núi thẳm đã tạo nên bất hạnh, nỗi khổ đau truyền kiếp. Điều còn lại cuối cùng vẫn là tình thân, tình thương, nỗi ân hận, sự thứ tha…

Hoàng Diệu, tên chữ là Kim Tích, tự Quang Viễn, hiệu Tĩnh Trai, sinh ngày mùng 10 tháng Hai năm Kỷ Sửu (5-3-1829) trong một gia đình nhà nho tại làng Xuân Đài, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Nổi tiếng thơ văn từ thuở thiếu thời, năm 20 tuổi ông đỗ cử nhân, 26 tuổi đỗ phó bảng, được bổ Tri huyện Tuy Phước, thăng Tri phủ Tuy Viễn (cùng trong tỉnh Bình Định). Cuộc đời làm quan, Hoàng Diệu từng lập được nhiều quân công. Từ năm 1879 đến 1882, Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh, quản lý vùng trọng yếu nhất của Bắc Bộ là Hà Nội và vùng phụ cận. Ông đã chỉ đạo quân dân Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Ngày 25 tháng 4 năm 1882 (tức ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ), thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tự vẫn tại Võ Miếu để không rơi vào tay giặc. Nhân dịp kỷ niệm 195 năm ngày sinh của Tổng đốc Hoàng Diệu (1829 -2024), mới đây tại nhà Thái học, Văn Miếu, Quốc Tử Giám đã diễn ra Tọa đàm, giới thiệu cuốn sách biên khảo “Cuộc đời và sự nghiệp của Tổng đốc Hoàng Diệu và công cuộc giữ thành Hà Nội” của hai tác giả TS. Nguyễn Quang Hà và Luật sư Hà Thị Thanh. Sự kiện do Chi Hội di sản Văn hóa Hồng Châu, Hà Nội (Thuộc Hội di sản Văn hóa Việt Nam) kết hợp với NXB Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp tổ chức. Tham dự sự kiện này, BTV Võ Hà đã có ghi nhận về dấu ấn cuộc đời của Tổng đốc Hoàng Diệu trong văn học.