Trong lịch sử văn học dân tộc ta và thế giới chưa có danh nhân nào được ca dao hóa với số lượng nhiều và sâu đậm nghĩa tình như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân khắp mọi miền đất nước đã sáng tác ca dao về Bác. Những câu ca hiện đại gửi gắm tình cảm sâu nặng của đồng bào với vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, người đã hy sinh cả cuộc đời tận trung với nước, tận hiếu với dân.
Nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại thuộc đội ngũ các tác giả hậu chiến, khẳng định tên tuổi của mình trong giai đoạn sau 1975. Nguyễn Sĩ Đại quê Hà Tĩnh, từng tham gia quân đội, tốt nghiệp khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội và là tiến sĩ văn học, chuyên ngành Hán Nôm. Ông có nhiều câu thơ, bài thơ gây được ấn tượng đậm nét trong lòng đông đảo bạn đọc, đặc biệt là các thế hệ học sinh sinh viên. Năm nay, nhà thơ Nguyễn Sĩ Đại vừa tròn 70 tuổi với một hành trình hơn 40 năm sáng tác. Chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật – Âm nhạc lần này xin được dành một cuộc trò chuyện về chân dung thơ Nguyễn Sĩ Đại với tên gọi: Nguyễn Sĩ Đại – Lòng như cờ không một nếp nhăn.

Khi gửi truyện ngắn Khói thảo cam tới chương trình, Bảo Thương có chia sẻ rằng: “Tôi viết truyện ngắn này trong một lần về Phú Yên. Dòng sông Ba còn đây, cửa biển còn đây, câu chuyện của những cựu binh phía bên này và bên kia vẫn kể cho nhau nghe về những hạm đội biển, những con tàu bị đánh chìm ngoài cửa sông, hoặc trên đại dương, trong những ngày đầu năm 1975, cùng những trận đánh của quân Giải Phóng…đã thôi thúc tôi viết truyện ngắn này…”. Câu chuyện kể về cuộc tình tay ba đầy tréo ngoe giữa Cúc, Cương và Thạch. Cương và Thạch, hai người lính vốn ở hai chiến tuyến khác nhau, họ là ân nhân của nhau trong chiến tranh, rồi theo nghĩa nào đó, họ cũng là ân nhân của nhau trong thời bình, khi cùng cưu mang, chở che, và làm chồng của Cúc, làm cha của bé Khương. Sự trớ trêu của mối tình, đã buộc họ phải lựa chọn. Cuối cùng, họ đã chọn ra đi, để nhường hạnh phúc cho người còn lại. Câu chuyện tình yêu lứa đôi và số phận đầy thương tâm, trắc trở, nhưng vượt lên trên tất cả là tình người cao cả, là ứng xử nhân văn đẹp đẽ giữa con người với con người. Chiến tranh nào rồi cũng qua, đau thương nào rồi cũng liền sẹo, giờ đây chúng ta hãy biết khép lại quá khứ để hướng đến tương lai tươi sáng hơn. Tương lai cho mỗi con người, tương lai cho một dân tộc thống nhất, toàn vẹn, đoàn kết và giàu mạnh. Đó phải chăng cũng là điều mà tác giả muốn gửi gắm qua truyện ngắn này?!
Tục ngữ, ca dao tuy không phải là triết học nhưng nghiên cứu, tìm hiểu, ta sẽ thấy một mảng nội dung của tục ngữ, ca dao rất gần gũi với một số tư tưởng triết học. Như ta đã biết, tục ngữ, ca dao được làm ra với mục đích cố gắng phát hiện ra bản chất và tính quy luật của các sự vật và hiện tượng tự nhiên, xã hội và đời sống con người. Do đó, nhiều người gọi tục ngữ, ca dao là “'triết lý dân gian”, “triết học của nhân dân lao động”.
Không phải ngẫu nhiên mà Chiến tranh không có một gương mặt phụ nữ của Svetlana Alexievich đã đoạt giải Nobel Văn học năm 2015, dù tác phẩm của bà không phải là văn chương hư cấu. Bởi, không cần hư cấu, những chấn thương chiến tranh mà phụ nữ phải chịu đựng có khi còn vượt xa khả năng tưởng tượng của độc giả, của nhà văn. Có quá nhiều bi kịch của phụ nữ trong và sau chiến tranh cần phải được lí giải từ cái nhìn của nữ giới. Ở nước ta, số phận người phụ nữ thời hậu chiến cũng là đề tài được nhiều nhà văn sáng tác, trong đó ảm ảnh hơn cả là truyện ngắn Người sót lại của rừng cười của nhà văn Võ Thị Hảo. Chương trình Đọc truyện đêm khuya hôm nay, xin được giới thiệu cùng các bạn hai tác phẩm viết về đề tài ấy: Truyện ngắn “Gót lữ đoàn” của nhà văn Nguyễn Thế Tường và “Mùa chim bay đi” của nhà văn Lê Trâm::
Hơn 40 thi phẩm trong tuyển tập thơ “Cùng Việt Nam” là tiếng nói từ tâm hồn các nhà thơ ở đất nước Tây Ban Nha gửi tới đất nước chúng ta trong thời kỳ chiến tranh ác liệt. Điều đó đã cho thấy sự nhất tâm và lòng trắc ẩn của các nhà thơ Tây Ban Nha trong tinh thần đồng hành, cổ vũ một dân tộc đang phải trải qua những đau thương, mất mát. Cao hơn nữa, đó là tinh thần phản chiến mạnh mẽ, tiếng nói lan tỏa tới cộng đồng quốc tế, giúp nhân dân thế giới hiểu thêm về phẩm chất anh dũng, quật cường, từ đó tiếp thêm niềm tin vào chiến thắng của lẽ phải, của chính nghĩa.
Những ai từng đến, gắn bó và trót “phải lòng” "đất sen hồng" Đồng Tháp đều thuộc nằm lòng những câu ca về xứ sở này. Tính cách, hồn cốt và những đặc trưng về đất và người nơi đây gói trong những vần ca dao mộc mạc, ân tình
Nhìn lại đội ngũ các nhà văn nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đã có không ít người ngã xuống nơi chiến trường, khi tài năng đang bắt đầu vào độ chín. Có thể kể đến những cái tên như Vũ Đình Văn, Chu Cẩm Phong, Nguyễn Trọng Định, Dương Thị Xuân Quý, Nguyễn Thi…Và trong số đó, không thể quên nhà thơ – liệt sĩ Lê Anh Xuân. 28 tuổi đời, tác phẩm để lại của Lê Anh Xuân mới chỉ khoảng trên dưới 60 bài thơ, một trường ca và một tập văn xuôi. Thế nhưng ông đã neo giữ tên mình vào một vị trí chắc chắn trong thi ca Việt Nam hiện đại nói chung, trong nền thơ chống Mỹ nói riêng. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước, chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật – Âm nhạc lần này xin được dành một cuộc trò chuyện về chân dung thơ Lê Anh Xuân với tên gọi: Lê Anh Xuân – Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ.
Ca dao người Việt từ xa xưa đã mở cánh cửa vào thế giới tâm linh bí ẩn của con người. Thế giới tâm linh trong ca dao được thể hiện rất đa dạng và phong phú. Niềm tin trong cuộc sống tín ngưỡng của người Việt thể hiện nhu cầu tinh thần hướng tới cái thiêng liêng cao cả và màu nhiệm.
Hơn 2 năm sau khi ra mắt tập thơ đầu tay, mới đây tác giả Vũ Trần Anh Thư, thành viên nhóm thơ Facebach giới thiệu tới công chúng ấn phẩm mới mang tên “Ban mai thơm mắt nắng”. Tập thơ dày dặn với 123 sáng tác kèm những phụ bản đẹp, đầy gợi tưởng của họa sĩ Trần Thắng. Cách quãng rồi trở lại với thơ chưa lâu nhưng Vũ Trần Anh Thư đã có nhiều sáng tác. Chị viết như để “đền bồi” lại những tháng năm đã bỏ lửng một niềm say mê từ thời thiếu nữ. Tập “Ban mai thơm mắt nắng” có tới 123 bài thơ viết bằng thể thơ 1-2-3 cho thấy Vũ Trần Anh Thư thực sự đắm đuối với một cách thể hiện mới, khi chị tìm thấy sự đồng điệu và tiếp nối.

Nhân vật Anne của truyện ngắn “Người đàn bà không quê hương” trong cách nhìn nhận của công chúng đương thời là một người đàn bà thiếu đức hạnh khi đánh mất hạnh phúc hôn nhân vì một sai lầm không đáng có. Cô phải trả giá bằng việc bị tước bỏ quyền làm mẹ, tự nguyện ly hương, sống đời lưu vong. Quá nhanh chóng, Anne bước vào một cơn mê mà bản thân không hề biết về diễn biến phía trước. Cuộc sống nay đây mai đó, tưởng rằng tự do, phóng khoáng, không vướng bận, không lo nghĩ tới ngày mai. Thế nhưng, tận sâu thẳm tâm hồn người đàn bà không quê hương vẫn còn neo giữ nỗi đau và ký ức về Tổ quốc đã ăn sâu vào máu thịt. Cô đã tự tước bỏ tất cả quá khứ, những điều còn vương vấn để bước vào một cuộc đời mới nhưng không thể nào dứt mình ra khỏi ký ức thân thuộc, đã trở thành một phần đời không thểt tách rời. Thông qua câu chuyện của người đàn bà không quê hương, một mẫu phụ nữ điển hình đã từng hết lòng vì gia đình, chồng con, vì một sự cố đáng tiếc mà trở thành kẻ tội đồ, thành đối tượng khiêu khích và giễu nhại của công chúng, nhà văn đề cập tới những định kiến đã phủ nhận và chối bỏ hoàn toàn nhân cách, phẩm giá con người. Đằng sau những câu chuyện thường tình là nỗi đau âm thầm, khôn nguôi mà người trong cuộc phải gánh chịu suốt quãng đời còn lại…
Từ xa xưa, dân gian đã coi trọng việc thờ cúng, “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”. Thế nhưng, lợi dụng tín ngưỡng dân gian, nhiều hiện tượng mê tín dị đoan đã nảy sinh. Từ đây, nhiều bài, nhiều câu ca dao đã ra đời, bật lên tiếng cười phê phán hết sức sâu cay.

Nhà thơ Lê Cảnh Nhạc sinh năm 1957 tại Hà Tĩnh. Tốt nghiệp Đại học tại Liên xô (cũ), Lê Cảnh Nhạc là Tiến sĩ Giáo dục học; Nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Dân số, nguyên Tổng Biên tập Báo Gia đình và Xã hội, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Ông từng được trao Giải Nhì cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật toàn liên bang của ĐSQ Việt Nam tại Liên Xô; Giải thưởng Văn học cho thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam, Giải thưởng sáng tác về Quyền trẻ em của Thụy Điển), Giải thưởng VHNT và báo chí của Bộ Quốc phòng, Giải thưởng Báo chí toàn quốc, Giải A Giải thưởng Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Tác phẩm đáng chú ý của nhà thơ Lê Cảnh Nhạc có các tập truyện “Người học trò thứ 31”, “Nỗi oan của Đốm”, “Lời ru không bán”, “Lâu đài”, tập ký “Mầm ác và hướng thiện”, các tập thơ “Khúc giao mùa”, “Không bao giờ trăng khuyết”, “Khúc thiên thai”, “Non nước đàn trời”. Tập thơ “Đi về phía mặt trời”, tác phẩm mới nhất của nhà thơ Lê Cảnh Nhạc ghi dấu ấn một chặng đường đời với nhiều suy tư, khắc khoải.
Trong thế giới cảm nhận của con người, hình ảnh hoa mang nhiều giá trị biểu trưng. Trong ca dao cổ truyền người Việt, hình ảnh hoa cũng mang đậm những hương vị, sắc màu, giá trị mới. Quá trình dịch chuyển từ thế giới sự vật trở thành thế giới cảm nhận của con người qua biểu trưng hoa trong ca dao là kết quả của cả một quá trình quan sát, trải nghiệm, tích lũy… để có được những cơ sở nhất định.