Là một người lính từng đi qua chiến tranh, trở về đời thường với công việc sáng tác văn chương, báo chí và xuất bản, cuộc đời nhà thơ Hoàng Đình Quang có biết bao vui buồn, kỷ niệm. Cách đây hơn 10 năm, trước ngưỡng tuổi 60, người bạn đời của ông không may mất đi, để lại một khoảng trống mênh mang và nỗi buồn, nỗi nhớ khôn nguôi.Nhiều năm sau khi mất người bạn đời, nhà thơ Hoàng Đình Quang vẫn rưng rưng xúc động khi đọc lại những sáng tác viết để tưởng nhớ bà.Trong hoàn cảnh “gà trống nuôi con”, qua những trang thơ Hoàng Đình Quang, người đọc, người nghe cảm nhận được nhịp tim khắc khoải, tấm lòng trắc ẩn của người cha tự nhận mình “nông nổi, lại cỗi cằn yêu thương”
Truyện ngắn chúng ta vừa nghe chỉ gồm hai nhân vật: Đoan (người lái xe taxi) và Giàng A Tống, người Mông, muốn nhờ Đoan chở mình về Lào Cai. Tình huống truyện mở ra bất ngờ: trong một đêm mưa bụi, bỗng có người khách vẫy taxi muốn đi một hành trình khá dài, hơn 300 cây số từ Hà Nội về Lào Cai. Đoan ban đầu cũng có chút ngần ngại vì sợ những nguy hiểm tiềm ẩn, nhưng sau đã bị thuyết phục trước vẻ thật thà chất phác của Giàng A Tống. Thế nhưng, cái nút thắt quan trọng của truyện nằm ở vẻ kỳ dị của người khách đi xe, khi ông luôn khư khư ôm chiếc hòm gỗ dài nửa mét, đôi khi còn nức nở rên la đau đớn ngay cả trong giấc ngủ. Cao trào của truyện đến với sự kiện đá núi sụt lở nghiêm trọng trên con đường Đoan đưa Giàng A Tống về quê. Và khoảnh khắc mà Đoan đưa xe thoát hiểm thành công diễn ra trong gang tấc, chỉ chậm vài giây thôi thì chiếc xe rơi xuống vực. Tất cả chỉ được hé mở ở cuối truyện, khi Giàng A Tống nghẹn ngào quỳ trước hộp gỗ, bởi trong đó chính là di hài của vợ ông, muốn được về quê hương yên nghỉ. Câu chuyện giản dị mà cảm động, được nhà văn dẫn dắt và kể lại một cách tài tình, hấp dẫn, cuốn hút. Tác phẩm mang đến cho mỗi người nghe, người đọc những thông điệp sâu sắc về tình nghĩa vợ chồng, về sức mạnh của tâm linh và những điều tốt đẹp trong cuộc đời.
Người nông dân xưa và cả ngày nay đều vô cùng phấn khởi khi có những mùa vàng bội thu. Hạt thóc thu hoạch về nhà được xay xát thành gạo, thành tấm, cám, làm lương thực, rơm rạ, tro, tro trấu được sử dụng hữu ích trong cuộc sống hàng ngày. Thấu hiểu vòng đời của hạt thóc, hạt gạo, cha ông ta có những ví von, ẩn dụ hết sức sâu sắc với nhiều cảnh tình trong đời sống.
Truyện lấy bối cảnh hai khoang bình dân và thương gia trên máy bay, cuộc đối thoại, thái độ xung đột và hòa giải giữa hai phụ nữ lớn tuổi đại diện cho hai đối tượng hành khách của chuyến bay. Chừng ấy nguồn cơn đã dễ trở thành một câu chuyện khá hấp dẫn. Mấu chốt kịch tính là cuộc sinh nở bất ngờ và cũng đầy nguy hiểm của một nữ hành khách trẻ tuổi khác. Tác giả đã đẩy cao để rồi làm dịu xuống khác biệt gây nên thái độ có phần hậm hực, cay cú của người phụ nữ ở khoang hành khách bình dân với người phụ nữ đồng lứa ở khoang hạng thương gia. Biến cố xảy ra đồng nghĩa với ranh giới giữa những con người mua vé máy bay hạng thường và hạng đặc biệt bị xóa nhòa. Họ đều là những phụ nữ lớn tuổi giàu lòng trắc ẩn, sốt sắng trước lằn ranh sinh tử và đều giang tay tình nguyện cứu giúp người sản phụ tội nghiệp. Mỗi con người, một hoàn cảnh mà phải trải qua hành trình tới nơi đất khách quê người, cuộc sống đặt ra cho họ những lựa chọn, tấm vé máy bay họ được con cái mua cho khẳng định vị trí của họ trên phương tiện di chuyển tới một vùng đất. Những tấm vé đặt ra ranh giới chỗ ngồi và cũng vô tình tạo ra khoảng cách trong lòng người, thậm chí chia cắt chân tình. Điều đó thật đáng sợ thế nhưng chỉ khi đặt vào hoàn cảnh cụ thể, những thử thách thót tim mới sáng lên nhân tâm, lòng tốt mà không một đường biên nào có thể ngăn cách. Tác giả đã thực sự kể cho người đọc, người nghe một câu chuyện đẹp như cổ tích giữa đời thường.
Các bạn thân mến, nếu với những đôi vợ chồng hiếm muộn thì việc có được một em bé thì họ phải bỏ bao công sức, thời gian và tiền bạc. Niềm hạnh phúc của họ thật sự vỡ òa khi em bé ra đời. Thế nhưng với vợ chồng Hoài và Thương trong truyện thì việc người vợ mang bầu lại mang đến biết bao nỗi lo lắng. Bởi hai vợ chồng đã có hai cô con gái, thêm một đứa nhỏ là thêm bao điều phải lo cơm áo gạo tiền nuôi con khôn lớn, trưởng thành. Cả hai vợ chồng đều là công nhân lao động, đồng lương có hạn nên việc phát sinh đứa bé thứ ba khiến Hoài chỉ thấy nặng lòng mà không thấy sung sướng. Tuy vậy, được sự động viên của chồng, của bố mẹ chồng thì Hoài cũng đón chào thành viên thứ 5 và nuôi con khỏe mạnh. Cuộc sống gia đình tuy có chút vất vả nhưng cũng tràn đầy hạnh phúc nếu không có vụ tai nạn bất ngờ xảy ra. Thương bị trấn thương nặng và có khả năng sống đời sống thực vật. Đôi vai gầy của người phụ nữ phải gồng gánh các con lại chăm lo người chồng bị bệnh. Trách nhiệm của một người mẹ, một người vợ khiến Hoài không thể gục xuống khi giờ đây cô trở thành trụ cột của cả gia đình. Dù vô vàn khó khăn nhưng trong lòng Hoài vẫn luôn hy vọng cái ngày chồng khỏi bệnh. Truyện ngắn về cuộc sống đời thương vất vả với niềm vui và nỗi buồn của người phụ nữ trong cuộc sống gia đình. Hoài hạnh phúc khi có một người chống hiền lành, chăm lo cho gia đình, hạnh phúc khi có bố mẹ chống yêu thương mình. Nhưng bên cạnh đó là nỗi nhọc nhằn vất vả lo toan cho gia đình cũng như nỗi bất hạnh khi chồng bị tai nạn. Tuy truyện ngắn có không ít chi tiết buồn như Hoài sớm mồ côi cha mẹ hay Thương phải sống đời sống thực vật nhưng tông màu chủ đạo vẫn là nét tươi sáng và niềm tim vào tương lai của một người vợ, người mẹ. Cuộc đời con người luôn có những thăng trầm và hạnh phúc chỉ đến với những ai biết đối mặt và vượt qua nó.
Từ ngàn năm nay, ruộng đồng và cây lúa không chỉ nuôi nấng để bao thế hệ con người Việt Nam trưởng thành mà hơn thế nữa đã trở thành một phần ký ức, ký thác nỗi niềm, tâm sự của cả một đời người. Trong những áng ca dao viết về cây lúa, chúng ta thấy hiện lên thân phận và quan niệm về cuộc sống của người nông dân. Nghiên cứu từ Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam đã tiến hành khảo sát và phát hiện lời ca thuộc về trường nghĩa chỉ lúa và các sản phẩm làm từ lúa, chiếm hơn 8 % trong tư liệu “Kho tàng ca dao người Việt”. Như vậy, số lượng các từ ngữ chỉ lúa và sản phẩm làm từ lúa xuất hiện trong ca dao là khá phong phú, đa dạng. Từ những tên gọi cây lúa cho đến bộ phận của cây lúa, giống lúa, sản phẩm được làm từ lúa và món ăn cơ bản từ lúa của cư dân nông nghiệp lúa nước như lúa, mạ, thóc, gạo, cơm, cháo, xôi, bánh,… xuất hiện nhiều lần trong ca dao.
Trong các gương mặt thi ca miền Nam nổi danh trước 1975, Tô Thùy Yên được xem là một trong những tên tuổi nổi bật. Ông có thơ đăng báo Đời mới từ trước 20 tuổi và là người miền Nam duy nhất góp phần xây dựng nhóm Sáng tạo với một tinh thần quyết liệt đổi mới thi ca. Trải qua những biến cố thăng trầm trong đời sống cá nhân, gắn vói những bước ngoặt lịch sử của dân tộc, Tô Thùy Yên sang Mỹ định cư từ 1993 và qua đời sau đó 26 năm, hưởng thọ 81 tuổi. Nhân dịp kỷ niệm tròn 05 năm ngày Tô Thùy Yên qua đời, chương trình Đôi bạn văn chương của Ban Văn học Nghệ thuật (VOV6), Đài TNVN xin được dành một cuộc trò chuyện về chân dung thơ ông với tên gọi: Tô Thùy Yên – Giọt rượu hồng trong cuộc bể dâu
Truyện ngắn Ngưu hoàng kể câu chuyện về hồn làng xưa đang rã ra từng mảnh từ câu chuyện ứng xử với căn nhà từ đường của cha ông trong một gia đình nông thôn dần bỏ làng ra phố. Thổ cư của lão bá hộ rộng cả mẫu với những cây ăn trái lâu năm đã thành rừng cây cổ thụ, nhà ngang dãy dọc, chuồng trại, nhà kho khang trang lại có nhà cho kẻ ăn người ở…Trong ngôi nhà cổ bày biện toàn đồ gia bảo, nhưng “Bọn phá hoại”. Lão rủa inh lên mỗi độ về thăm nhà. Nhưng là rủa chung chung thôi. Bọn phá hoại chính là ba thằng con trai lão. Đứa này xin tấm phản gỗ dày cả gang tay về xẻ làm sa lông thẻ, đứa kia xin cái tràng kỷ chạm khắc xà cừ về kê nằm mát, đứa thì cái mâm đồng, đứa thì chở chum vại, hũ có tuổi hơn trăm năm… Rồi những đồ đạc quý ấy cũng chẳng còn ở trong nhà ba đứa con. Đứa bán cho đám đồ cổ, đứa vứt đi thay đồ hiện đại…Tan hoang này có lỗi của lão. Chính lão cũng không thấy hết giá trị ngôi nhà của cha mẹ để lại và đã dễ dãi vứt bỏ. Ba đứa con trai không đứa nào thèm nhận nhà từ đường và lão cũng hùa về phố ở với chúng. Cuối cùng, cảm thấy mình sắp chết, lão về lại cơ ngơi xưa. Về để lão tự cứu mình, cứu ngôi nhà tổ tiên. Ký ức vụt dậy, câu chuyện về ngưu hoàng – cái túi mật của con bò vàng do lão thầy Miên nói, là một loại kỳ dược, có thể cải tử hoàn sinh. Bản năng sống âm ỷ trong cơ thể rệu rã của lão bùng lên như bấc cạn dầu, mùi hương của đàn bà, cả hương âm con ma nữ áo trắng đi từ dưới ao lên từng trong mơ biến gã trai mười bảy là lão thành đàn ông rồi cứ nương vào hương vợ, cả các cô con dâu lẫn đứa người làm mà thức dậy, lan tỏa, mời gọi lão. Hồn làng xưa ngụ trong hồn của lão, hồn lão ngụ trong cơ thể đang dần tàn lụi còn chính lão thì ngụ trong ngôi nhà rường đang mòn mỏi giữa đàn mối mọt kiên trì và ráo riết gặm nhấm. Kết truyện, lão bá hộ chết ngay trên chính mảnh đất cha ông thật có ý nghĩa, và mang tính biểu tượng…
Truyện ngắn Ngưu hoàng kể câu chuyện về hồn làng xưa đang rã ra từng mảnh từ câu chuyện ứng xử với căn nhà từ đường của cha ông trong một gia đình nông thôn dần bỏ làng ra phố. Thổ cư của lão bá hộ rộng cả mẫu với những cây ăn trái lâu năm đã thành rừng cây cổ thụ, nhà ngang dãy dọc, chuồng trại, nhà kho khang trang lại có nhà cho kẻ ăn người ở…Trong ngôi nhà cổ bày biện toàn đồ gia bảo, nhưng “Bọn phá hoại”. Lão rủa inh lên mỗi độ về thăm nhà. Nhưng là rủa chung chung thôi. Bọn phá hoại chính là ba thằng con trai lão. Đứa này xin tấm phản gỗ dày cả gang tay về xẻ làm sa lông thẻ, đứa kia xin cái tràng kỷ chạm khắc xà cừ về kê nằm mát, đứa thì cái mâm đồng, đứa thì chở chum vại, hũ có tuổi hơn trăm năm… Rồi những đồ đạc quý ấy cũng chẳng còn ở trong nhà ba đứa con. Đứa bán cho đám đồ cổ, đứa vứt đi thay đồ hiện đại…Tan hoang này có lỗi của lão. Chính lão cũng không thấy hết giá trị ngôi nhà của cha mẹ để lại và đã dễ dãi vứt bỏ. Ba đứa con trai không đứa nào thèm nhận nhà từ đường và lão cũng hùa về phố ở với chúng. Cuối cùng, cảm thấy mình sắp chết, lão về lại cơ ngơi xưa. Về để lão tự cứu mình, cứu ngôi nhà tổ tiên. Ký ức vụt dậy, câu chuyện về ngưu hoàng – cái túi mật của con bò vàng do lão thầy Miên nói, là một loại kỳ dược, có thể cải tử hoàn sinh. Bản năng sống âm ỷ trong cơ thể rệu rã của lão bùng lên như bấc cạn dầu, mùi hương của đàn bà, cả hương âm con ma nữ áo trắng đi từ dưới ao lên từng trong mơ biến gã trai mười bảy là lão thành đàn ông rồi cứ nương vào hương vợ, cả các cô con dâu lẫn đứa người làm mà thức dậy, lan tỏa, mời gọi lão. Hồn làng xưa ngụ trong hồn của lão, hồn lão ngụ trong cơ thể đang dần tàn lụi còn chính lão thì ngụ trong ngôi nhà rường đang mòn mỏi giữa đàn mối mọt kiên trì và ráo riết gặm nhấm. Kết truyện, lão bá hộ chết ngay trên chính mảnh đất cha ông thật có ý nghĩa, và mang tính biểu tượng…
Đã hơn 3 năm nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm rời xa dương thế. Thời gian, bụi phủ, bao ước mơ, dự cảm, vẫn tiếc thương thay một Hoàng Nhuận Cầm với nỗi niềm, khao khát: “Ai trong chúng ta cũng có lúc buồn, muốn chết/ Vì Tình Yêu Cuộc Sống tràn đầy/ Nếu phải chết cho tôi xin được chọn/ Cái chết nào/ Lập tức/ Phục Sinh ngay!”. Gặp gỡ những người yêu mến thơ Hoàng Nhuận Cầm tại sự kiện kỷ niệm 3 năm ngày mất của ông do Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức, BTV Tiếng thơ có những ghi nhận:
Đã hơn 3 năm nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm rời xa dương thế. Thời gian, bụi phủ, bao ước mơ, dự cảm, vẫn tiếc thương thay một Hoàng Nhuận Cầm với nỗi niềm, khao khát: “Ai trong chúng ta cũng có lúc buồn, muốn chết/ Vì Tình Yêu Cuộc Sống tràn đầy/ Nếu phải chết cho tôi xin được chọn/ Cái chết nào/ Lập tức/ Phục Sinh ngay!”. Gặp gỡ những người yêu mến thơ Hoàng Nhuận Cầm tại sự kiện kỷ niệm 3 năm ngày mất của ông do Hội Nhà văn Hà Nội tổ chức, BTV Tiếng thơ có những ghi nhận:
Từ trong ca dao, những cánh cò là biểu tượng cho số phận nhọc nhằn, nắng mưa vất vả của người nông dân và đặc biệt là người phụ nữ Việt Nam. Những câu ca giàu hình ảnh, nhẹ nhàng mà thấm thía biết bao nỗi đời.
Phụ nữ xứ nào cũng vậy, mang bản năng dịu dàng và hết lòng chăm sóc gia đình, chồng con. Nhiều người chấp nhận cuộc sống nội trợ nhàm chán, đơn điệu, toàn tâm cho tổ ấm. Toàn bộ tâm trí, sức lực và nhịp đập trái tim họ hướng về những vui buồn của những người thân yêu. Tuy nhiên, điều họ cần không phải là sự trả ơn. Họ chỉ cần gia đình, người thân được bình an, sống tử tế, và đặc biệt không được phản bội lại lòng tin của mình. Ở những người phụ nữ này toát lên nét nữ tính, cuốn hút dù thế giới hàng ngày của họ chỉ là một không gian thu nhỏ với những điều giản đơn. Thế nhưng, thẳm sâu dưới phẳng lặng là những cơn sóng ngầm, một khi đã làm tổn thương, làm trái tim phụ nữ vụn vỡ thì sự đáp trả của họ cũng thật dữ dội. Biển khơi đã nổi giận, cuốn phăng và vùi sâu tất thảy xuống lòng đại dương, tuyệt không dấu vết. Bằng ngòi bút điềm nhiên, nhà văn đã kể cho chúng ta một câu chuyện mở đầu bằng khung cảnh trong căn nhà ấm áp, một người phụ nữ đang đợi chồng trở về nhà sau một ngày làm việc và kết thúc bằng tiếng cười có phần man rợ của chính người phụ nữ đó sau khi xóa sạch dấu vết của hành động sát nhân. Li kỳ, kịch tính và cũng chứa đựng thông điệp về hậu họa của sự phản bội, nhà văn Roald Dahl vốn nổi tiếng với các tác phẩm viết cho lứa tuổi thiếu nhi đã chứng tỏ được khả năng với thể loại trinh thám vốn chưa bao giờ thôi cuốn hút với công chúng, độc giả.
Truyện ngắn chúng ta vừa nghe xoay quanh câu chuyện của cặp vợ chồng Thùy và Tiến, trong đó Thùy được tập trung miêu tả, khắc họa đậm nét. Thùy vốn là một ý tá xinh đẹp, sau khi kết hôn thì nghe lời chồng nghỉ việc để hỗ trợ công việc cho chồng. Là một tay môi giới bất động sản, Tiến thường kéo Thùy đi những cuộc gặp gỡ khách hàng của mình, tận dụng nhan sắc của Thùy trong việc ký kết các dự án, hợp đồng. Thế nhưng, chuyến đi đến Lũng Mây đã trở thành một bước ngoặt trong cuộc đời của Thùy. Tiến đã lộ rõ bộ mặt đê tiện, thấp hèn, sẵn sàng bán đứng vợ, biến vợ thành một món hàng thân xác với tay quan chức của địa phương. Thùy cũng đã có mối duyên kỳ lạ với cô gái liệt sĩ cùng tên hy sinh ở ga Yên Khê, khi cô hỗ trợ Thùy giúp sản phụ vượt cạn thành công ngay trên chuyến tàu đêm. Thùy cũng bất ngờ gặp được chị dâu của cô gái liệt sĩ cùng tên với mình. Truyện có một cái kết mở, gợi cho người nghe, người đọc nhiều suy nghĩ. Thùy đã quyết định dừng chân ở ga Yên Khê chứ không theo chồng về thành phố, điều ấy cũng có thể hiểu là Thùy sẽ không tiếp tục đồng hành cùng Tiến khi đã nhận rõ bản chất của một kẻ con buôn, coi đồng tiền là trên hết. Cũng qua câu chuyện của Thùy, mỗi chúng ta có thể chiêm nghiệm nhiều hơn về một đời sống tâm linh vẫn hàng ngày hàng giờ đồng hành cùng đời sống thực, nhắc nhở mỗi người phải biết sống sao cho tốt hơn, hướng đến sự tử tế và lương thiện.