Trong tiến trình nghiên cứu về văn học trung đại từ trước đến nay, nhiều nhà nghiên cứu vẫn có thói quen hợp nhất văn học thời Lý và thời Trần ở nước ta. Thực tế, thời Lý được đánh giá là giai đoạn văn học viết hình thành và bắt đầu phát triển, có những thành tựu, minh chứng qua các trước tác để lại tới hôm nay. Tuy vậy, do biến động của thời đại, chiến tranh, loạn lạc, di sản văn thơ của Lý triều để lại tới hôm nay số lượng thống kê chưa được phong phú như các triều đại sau này như triều Trần, triều Lê. Chương trình hôm nay lật giở lại những giá trị truyền đời cón ít nhiều khuất lấp ấy.
Trong tiến trình nghiên cứu về văn học trung đại từ trước đến nay, nhiều nhà nghiên cứu vẫn có thói quen hợp nhất văn học thời Lý và thời Trần ở nước ta. Thực tế, thời Lý được đánh giá là giai đoạn văn học viết hình thành và bắt đầu phát triển, có những thành tựu, minh chứng qua các trước tác để lại tới hôm nay. Tuy vậy, do biến động của thời đại, chiến tranh, loạn lạc, di sản văn thơ của Lý triều để lại tới hôm nay số lượng thống kê chưa được phong phú như các triều đại sau này như triều Trần, triều Lê. Chương trình hôm nay lật giở lại những giá trị truyền đời cón ít nhiều khuất lấp ấy.
Văn Huệ Vương – Trần Quang Triều là chủ soái, linh hồn của Bích Động thi xã. Trong các đàm đạo, xướng họa thơ văn của thi xã, ông vừa đóng vai trò là người chủ trì vừa thể hiện tài năng, khí chất hơn người. Bởi thế, trong nhiều tứ thơ các thành viên chủ chốt của Bích Động thi xã như Nguyễn Ức, Nguyễn Sưởng đều thấp thoáng hình ảnh vị chủ soái tài hoa cũng như bày tỏ niềm kính phục với tài năng, phẩm cách của ông
Trở lại với nội dung sáng tác văn thơ thời vãn Trần cũng như hoạt động của Bích Động thi xã, buổi “Tìm trong kho báu” hôm nay điểm qua di sản thơ văn của những tên tuổi tiêu biểu như nhà thơ, danh sỹ Nguyễn Ức, Nguyễn Trung Ngạn, vua Trần Minh Tông
Thời Lý – Trần ở nước ta được xem là giai đoạn hết sức hưng thịnh của Phật giáo. Đó cũng là thời kỳ ra đời dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử với những tên tuổi lớn của văn học trung đại. Buổi “Tìm trong kho báu” hôm nay của Ban VHNT VOV6 tìm về với cội nguồn những trung tâm Phật giáo, nơi phát tích dòng thiền và những nhóm phái văn học đặc sắc thời Trần.
Từ trước đến nay, nhiều nghiên cứu về văn học thời trung đại vẫn cho rằng Tao đàn nhị thập bát tú thời vua Lê Thánh Tông là hội thơ đầu tiên của nước ta. Trên thực tế, trước đó rất lâu, từ thời nhà Trần, đã có sự xuất hiện của một thi xã mang tên Bích Động do danh tướng Trần Quang Triều sáng lập nên. Buổi “Tìm trong kho báu” hôm nay của Ban VHNT (VOV6) có những giải mã về thi xã với các thành viên đều là những danh nho, danh tướng thời vãn Trần.
Buổi “Tìm trong kho báu” số trước đã cung cấp những nhận định khái quát về phong trào sáng tác và xướng họa trong cung đình nước ta thời trung đại. Chương trình hôm nay tiếp tục có những góc nhìn cận cảnh vào di sản thơ văn của các hoàng đế triều Nguyễn – Đồng thời nối dài ra phong trào sáng tác ở làng xã cùng sự ra đời, phát triển của các văn hội trong xã hội phong kiến.
Mười thế kỷ văn học trung đại nước ta cũng là quãng thời gian ghi dấu ấn một nền khoa bảng bề thế. Nhiều tác giả danh tiếng đồng thời là những danh nho đỗ đạt cao ra giúp nước giúp đời. Qua từng triều đại, cùng với các vị hoàng đế, các vị danh nho này góp phần gây dựng phong trào sáng tác và xướng họa thơ văn trong cung đình. Chương trình hôm nay nhận diện một số đặc điểm của dòng văn học chủ lưu này của giai đoạn trung đại.
Theo các tư liệu lịch sử, Danh sĩ Đỗ Nhuận từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình như: Đông các Hiệu thư, Hàn lâm viện Thị độc, Thượng thư, Đông các đại học sĩ. Năm 1495, vua Lê Thánh Tông sáng lập Hội Tao đàn nhị thập bát tú, nhà vua đương nhiên là Đô nguyên soái, Đỗ Nhuận và Thân Nhân Trung được phong làm Phó nguyên soái, mời dự các buổi bình thơ của vua. Nếu Danh sĩ Thân Nhân Trung nổi tiếng với câu nói: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” thì Quan Đông các đại học sĩ Đỗ Nhuận đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Bính Tuất dưới thời vua Lê Thánh Tông. Ông sinh năm 1446, người xã Kim Hoa, huyện Kim Hoa, thừa tuyên Kinh Bắc, nay thuộc thôn Bạch Đa, xã Kim Hoa (Mê Linh - Hà Nội). Đánh giá về Danh sĩ Đỗ Nhuận, nhà sử học Phan Huy Chú xếp ông là một trong mười tám người phò tá có công lao, tài đức thời Lê sơ. Nhóm sử quan biên soạn “Đại Nam nhất thống chí” ghi nhận Đỗ Nhuận là một trong những nhân vật tiêu biểu dưới thời Lê của tỉnh Bắc Ninh xưa.
Tiếp tục tìm hiểu về Tao đàn nhị thập bát tú thời vua Lê Thánh Tông, chương trình tuần này của Ban VHNT (VOV6) đi vào chính sử để giải mã hoạt động và sức ảnh hưởng của hội nhóm thi ca mang tính chất cung đình dưới một triều đại thịnh trị bậc nhất trong lịch sử phong kiến nước ta.
Về gốc gác ra đời của “Tao đàn nhị thập bát tú”, tương truyền năm Quý Sửu (1493) và Giáp Dần (1494) do thời tiết thuận hòa nên mùa màng tốt tươi, nhân đất nước thanh bình vua Lê Thánh Tông đặt 9 bài thơ ca ngợi chế độ, là: Phong niên, Quân đạo, Thần tiết, Minh lương, Anh hiển, Kỳ khí, Thư thảo, Văn nhân và Mai hoa. Từ đó nhà vua lập ra Tao Đàn và đưa 9 bài thơ này ra cho các triều thần dựa theo vần luật của chúng mà xướng họa ra tới 250 bài thơ chữ Hán và chữ Nôm ca ngợi triều đại. Chính trong bài tựa tập thơ “Quỳnh uyển cửu ca”, vua Lê Thánh Tông đã đề cập tới cụm từ “Nhị thập bát tú”: “Lại tập hợp bọn học sĩ Thân, Đỗ, Ngô, Lưu, bọn văn thần Nguyễn, Dương, Chu, Phạm, gồm 28 người, ứng với 28 ngôi sao thuộc Nhị thập bát tú thay nhau cùng họa, có tới vài trăm bài, bài nào cũng lựa chữ công phu, dùng từ chắc chắn. Thơ làm xong dâng lên, lòng ta vui thích”.
Thời kỳ làm Tổng binh xứ Hưng Hóa, một vùng đất kéo dài từ Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Sơn La đến Hòa Bình ngày nay, Nguyễn Gia Thiều thường tranh thủ từ vùng núi rừng hiểm trở về nhà riêng ở gần hồ Tây để sáng tác và đàm đạo cùng anh em, bạn hữu. Tương truyền, ông có đến mười một em trai, hai mươi em gái, trong đó có bốn người em trai cùng chung niềm say mê với thơ ca. Ông cùng các em lập nên Tao đàn Tứ Trai. Thi đàn gia đình gồm Nguyễn Gia Thiều tên hiệu là Tâm Thi Viện Tử được tôn là Thi Nguyên. Bốn người em trai là Kỳ Trai Nguyễn Gia Cơ, Hòa Trai Nguyễn Gia Diễm, Mục Trai Nguyễn Gia Xuyến, Thanh Trai Nguyễn Gia Tuyên lấy tên hiệu lần lượt là Thi Đề, Thi Xích, Thi Cầm, Thi Thược.
Khi nhà Tây Sơn lên cầm quyền, vua Quang Trung – Nguyễn Huệ nhờ quyết sách trọng dụng hiền tài, kể cả những quan lại dưới triều vua Lê – Chúa Trịnh nên đã chinh phục được nhân sĩ, thức giả Bắc Hà, vốn trước đó có cái nhìn ít nhiều thiếu thiện cảm. Cũng từ đây, dưới ánh sáng của một triều đại mới, các tác phẩm văn học phong phú về thể loại như thơ phú chữ Hán, chữ Nôm, Văn tế, Hịch, Tiểu thuyết lịch sử, Chiếu, Biểu... đã ra đời và ghi dấu ấn trong dòng văn học của dân tộc.
Cuối thế kỷ 18, thời kỳ gắn với những biến động lịch sử, sự tồn tại song song của nhiều chính thể, văn học vẫn không ngừng phát triển. Nhiều tác giả lỗi lạc xuất hiện trong giai đoạn này với những di sản thơ văn giá trị. Trong đó, có thể khẳng định dưới triều Tây Sơn, tồn tại từ năm 1771 đến năm 1801, văn học nghệ thuật có sự phát triển nở rộ. Dù sau này triều Nguyễn đã mạnh tay xóa bỏ ảnh hưởng của nhà Tây Sơn trong xã hội nhưng qua những sưu tầm, khám phá, tìm lại khẳng định thời kỳ Tây Sơn có những cống hiến quan trọng cho nền văn học dân tộc