Kinh Bắc vốn là một vùng đất có lịch sử lâu đời. Nơi đây tập trung nhiều làng nghề nổi tiếng như tranh Đông Hồ, gốm Bát Tràng, gỗ Đồng Kỵ, nem Bùi, bánh đa nem Thổ Hà, bánh đa Kế, mì Chũ, vải thiều Lục Ngạn... Chính nơi đây, dân ca quan họ và hội Gióng được UNESCO vinh danh di sản văn hóa phi vật thể; mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là di sản tư liệu thế giới. Mỗi độ sang Xuân, đất Kinh Bắc lại rộn ràng nhiều lễ hội.
Những ngày tháng Hai, tháng Ba âm lịch, không khí hội Xuân rộn ràng ở nhiều đền chùa khắp đất nước ta. Nhiều câu ca dao xưa truyền tụng tới ngày nay diễn tả một cách sinh động như một cách nhắc nhớ về các hội Xuân lâu đời.
Trong tác phẩm “Việt Nam Cổ Văn Học Sử”, tác giả Nguyễn Đổng Chi đã viết: “Vào những ngày hội hoặc ngày tế thần, thường thường là mùa Xuân xa ngày cấy hái, trai gái các bộ lạc thôn ấp thường tụ tập lại một nơi, đặt ra lời ví hát ghẹo nhau, trong khi gảy đàn, thổi sáo, đánh trống, múa nhảy hay là bày các trò vui”. Nhiều đời nay, đến hẹn lại lên, dân gian khắc ghi những lễ hội truyền thống qua các câu ca dao quen thuộc.
Ca dao được ví như cung đàn muôn điệu của người bình dân. Có thể nói bên cạnh những giai điệu tươi vui và rộn ràng, ta còn nghe vọng không ít những khúc nhạc buồn thương ai oán. Đó là nỗi lòng của những kiếp người bất hạnh, những cảnh đời éo le, trắc trở. Và ai oán, cảm thương hơn cả là những câu hát than thân của người phụ nữ. Từ đây, người đương thời và đời sau thấy được bi kịch của thân phận phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Đất nước Việt Nam ta vốn là cái nôi của nền văn minh lúa nước. Người dân Việt quanh năm hai sương một nắng canh tác trên đồng ruộng. Chỉ sau vụ Chiêm và vụ Mùa, tức mùa Xuân và mùa Thu, người nông dân ta mới được nghỉ tay. Cũng dịp này, các làng tổ chức hội hè. Và đó cũng là nguyên cớ ra đời các lễ hội lâu đời, đặc biệt là được tổ chức rất nhiều vào mùa Xuân. Trong tác phẩm “Việt Nam Văn Hóa Sử Cương”, nhà khảo cứu Đào Duy Anh đã đưa ra nhận xét: “Trong làng thường năm có nhiều kỳ tế lễ để dân làng có dịp “ăn uống” và “vui chơi”. Những cuộc tế 1ễ lớn nhất là lễ Kỳ phúc về mùa Xuân và mùa Thu để cầu bình yên cho dân làng, lễ Nhập tịch hay vào đám vào khoảng tháng Giêng, tháng Hai, khi thường thì chiếu lệ tế lễ dăm bảy ngày, năm nào hòa cốc phong đăng dân gian làm ăn thịnh vượng hay nhân lễ rước sắc thần, hay nhân lễ khánh thành đình mới thì mở Đại hội, bày những cuộc vui chơi hát xướng đến nửa tháng hay cả tháng”.
Bước ra từ thần thoại, rồng là một biểu tượng tôn nghiêm, cao quý rất được người thời xưa coi trọng. Bởi vậy, nhiều tác phẩm văn học dân gian nước ta đề cập tới biểu tượng rồng.
Từ xa xưa, trong tâm thức của mỗi người dân Việt Nam ta, bên cạnh tên gọi quen thuộc là Tết ta, Tết Cổ truyền, Tết Âm lịch, Tết Nguyên đán còn được gọi là Tết Cả, mở đầu một năm mới khoảnh khắc giao thoa đất trời có ý nghĩa vô cùng linh thiêng. Bởi thế mà kho tàng ca dao của dân tộc ta có rất nhiều câu ca nói về ngày Tết.
Trong kho tàng ca dao của dân tộc ta, những câu ca ca ngợi quê hương, xứ sở chiếm số lượng khá nhiều. Riêng về mảng ca dao về xứ Huế, điều dễ nhận thấy là sự dày đặc các địa danh và tâm tình lắng đọng qua các sự kiện lịch sử.
Ca dao về xứ Huế có nhiều câu đặc tả về cảnh sắc thiên nhiên các địa danh. Âm điệu của hầu hết những câu ca dao này là nhẹ nhàng, chuyển tải nỗi niềm tâm sự của con người cố đô đa sầu, đa cảm.
Huế là vùng đất có truyền thống lịch sử, chiều sâu văn hóa. Từng là Thủ phủ của Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, rồi trở thành kinh đô đất nước dưới triều Tây Sơn và tiếp tục là kinh đô trong gần một thế kỷ rưỡi dưới triều Nguyễn, ca dao về xứ Huế cũng phong phú, đa dạng về nội dung, cảm xúc.
Nhiều nhà nghiên cứu đã cất công tìm hiểu về các địa danh được đề cập tới trong bài ca dao "Gió đưa cành trúc la đà...", đặc biệt là địa danh Thọ Xương. Trong đó, những phân tích khoa học của Nhà nghiên cứu Tôn Thất Thọ xác tín hơn cả.
Nhiều bài ca dao các vùng miền mở đầu bằng mô – típ quen thuộc “Gió đưa”. Và mô – típ này cũng diễn tả, phát triển thành những hình ảnh câu chuyện, cảm xúc vô cùng phong phú, đa dạng. "Gió đưa cành trúc la đà" được xem là một trong số những bài ca dao đề tài thiên nhiên, phong cảnh phổ biến tới tận ngày nay.
Người xưa thường mượn những hình ảnh thân thuộc, gần gũi để ký thác nỗi niềm, tâm sự. Trúc, mai là những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt và cũng xuất hiện rất nhiều lần trong ca dao. Tác giả dân gian nhắc đến trúc, mai; nhưng không phải để tả thực cây trúc cây mai, cũng không phải bàn chuyện trúc mai phong cảnh, mà mượn mai, trúc để nói về con người.
Người Việt ta xưa vốn ưa lối giao tiếp khéo léo, lễ nghĩa, kín đáo, nhuần nhị nhưng cũng không kém phần hóm hỉnh, hài hước. Chúng ta hãy thử ngẫm lại mấy câu ca sau: “Bây giờ mận mới hỏi đào/ Vườn hồng đã có ai vào hay chưa/ Mận hỏi thì đào xin thưa/ Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào”. Mượn hình ảnh các loài cây, hoa đặc trưng, rõ ràng người xưa đã rất ý nhị trong cách tỏ tình và đáp lời. Trong kho tàng ca dao không ít những câu sử dụng nghệ thuật ẩn dụ về người lao động với nhiều cung bậc cảm xúc và cách thể hiện vô cùng phong phú.