Trong cuộc sống của mỗi con người, điều quý nhất là phải có một nhân cách, phẩm chất tốt. Vẻ đẹp về nhân cách đã được các tác giả dân gian thể hiện qua các câu ca dao rất ngắn gọn, súc tích. Đặc biệt là những câu ca dao thể hiện hình ảnh hoa trái. Khi nhắc đến hoa, quả là nhắc tới hương thơm quyến rũ, vị ngọt nồng nàn, đa sắc, đa hương, đa màu, đa vị. Hoa trong ca dao biểu trưng cho phẩm chất cao quý, cho thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ.
Ca dao vốn ưa dùng hình ảnh biểu tượng để gửi gắm quan niệm về cuộc sống, suy ngẫm thân phận con người, về lẽ đối nhân xử thế. Neo vào hoa, vẻ đẹp hương sắc của thiên nhiên, các tác giả dân gian đã sáng tác nên những câu ca gần gũi, thân thuộc với người bình dân.
Từ xa xưa, ca dao ta đã có nhiều câu nói về rượu. Khi gắn với nghi lễ, rượu tượng trưng cho việc chuẩn thuận, thề nguyền; khi gắn với lạc thú, rượu như một vị chủ không thể thiếu; khi xét đến người đẹp, chỉ có rượu mới tương xứng để đối sánh. Nhưng tác hại của rượu cũng không nhỏ nếu người uống không biết dừng lại ở mức cần dừng. Trong những dịp cúng lễ, lễ lạt, hiếu hỉ, và đặc biệt là vào dịp Tết, rượu thường được nhắc đến, và có khi trở thành quan trọng hàng đầu: "Vô tửu bất thành lễ". Rượu gắn với giới tao nhân mặc khách. "Cầm kì thi tửu", "bầu rượu túi thơ", Lưu Linh viết "Tửu đức tụng" (tán tụng công đức của làng rượu), Lí Bạch không chỉ là “thi tiên" mà còn được gọi là “tửu tiên", Phạm Thái, Nguyễn Công Trứ, Cao Ba Quát... đều sành rượu và có thơ ca ngợi rượu, là vài minh chứng. Ca dao bàn về rượu, ở một chừng mực nào đó phản ánh phong tục, quan niệm của người Việt về một thức uống có lịch sử lâu đời và mang tính toàn cầu.
Từ xa xưa, người Việt ta đã sử dụng ca dao như một phương thức hữu hiệu để thổ lộ nỗi lòng, kể chuyện, sẻ chia kinh nghiệm hoặc khuyên nhủ về đạo lý làm người. Trong đó, vi diệu và cũng đầy ý tứ là những câu ca dao tỏ bày tình yêu đôi lứa.
Từ nhiều đời nay, tranh dân gian có nhiều hoạt cảnh, ca dao, thành ngữ của ta cũng có nhiều câu đề cập tới tâm lý sở hữu và ghen tuông trong tình yêu và hôn nhân.
Từ xa xưa, các tác giả dân gian đã dùng nhiều cách biểu đạt khoa trương trong ca dao. Không chỉ sử dụng số từ, động từ mà thành ngữ còn xuất hiện trong nhiều câu ca. Nhờ đó, ca dao trở nên sinh động về mặt ngôn từ, sâu sắc về mặt ngữ nghĩa.
Từ xa xưa, các tác giả dân gian đã có nhiều cách biểu đạt ý tưởng, cảm xúc hết sức tinh tế và độc đáo. Một trong những cách thức ấy là việc sử dụng đại từ “Ai” trong nhiều câu ca dao. Khi cất lên thành những lời ru, hiệu ứng của nét nghệ thuật này được phát huy một cách đậm nét và đầy biểu cảm. Tác giả Hà Phương đã có cảm bình về tiếng “ai” trong những lời ru.
Trong tiếng Việt, khi cần nhấn mạnh làm nổi bật đặc trưng, tính chất của đối tượng, người ta cố tình nói quá sự thật; việc nói quá ở đây có thể là phóng to hoặc thu nhỏ đối tượng cần miêu tả. Lối nói này được gọi là khoa trương. Nhiều câu ca dao truyền miệng cũng sử dụng đắc địa lối nối khoa trương, tạo được những hiệu ứng nhất định.
Ca dao phản ánh tiếng nói của quần chúng đối với các hiện tượng trong xã hội đương thời. Thái độ bình phẩm, phán xét của công luận hiển hiện rõ nét và “Trăm năm bia đá cũng mòn/ Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Nói như vậy để thấy ca dao liên quan đến lịch sử Việt Nam là “tấm bia miệng” để đời, là tấm gương cho nhiều thế hệ soi chung và bản thân những câu ca dao đó cũng là phán xét của lịch sử.
Bên cạnh cảm xúc trữ tình, ca dao còn là tiếng nói của quần chúng nhân dân với những nhân vật, sự kiện và hiện tượng trong xã hội đương thời. Trước những biến cố liên quan đến vận mệnh dân tộc và đất nước, dân gian cũng sáng tác ra các câu ca còn ý nghĩa tới hôm nay.
Trong lịch sử văn học dân tộc ta và thế giới chưa có danh nhân nào được ca dao hóa với số lượng nhiều và sâu đậm nghĩa tình như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân khắp mọi miền đất nước đã sáng tác ca dao về Bác. Những câu ca hiện đại gửi gắm tình cảm sâu nặng của đồng bào với vị lãnh tụ tối cao của dân tộc, người đã hy sinh cả cuộc đời tận trung với nước, tận hiếu với dân.
Tục ngữ, ca dao tuy không phải là triết học nhưng nghiên cứu, tìm hiểu, ta sẽ thấy một mảng nội dung của tục ngữ, ca dao rất gần gũi với một số tư tưởng triết học. Như ta đã biết, tục ngữ, ca dao được làm ra với mục đích cố gắng phát hiện ra bản chất và tính quy luật của các sự vật và hiện tượng tự nhiên, xã hội và đời sống con người. Do đó, nhiều người gọi tục ngữ, ca dao là “'triết lý dân gian”, “triết học của nhân dân lao động”.
Những ai từng đến, gắn bó và trót “phải lòng” "đất sen hồng" Đồng Tháp đều thuộc nằm lòng những câu ca về xứ sở này. Tính cách, hồn cốt và những đặc trưng về đất và người nơi đây gói trong những vần ca dao mộc mạc, ân tình
Ca dao người Việt từ xa xưa đã mở cánh cửa vào thế giới tâm linh bí ẩn của con người. Thế giới tâm linh trong ca dao được thể hiện rất đa dạng và phong phú. Niềm tin trong cuộc sống tín ngưỡng của người Việt thể hiện nhu cầu tinh thần hướng tới cái thiêng liêng cao cả và màu nhiệm.