Nói đến nhà thơ, nhà viết kịch, PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ, nhiều người biết ông là tác giả của những vở kịch nổi tiếng như “Chuyện tình Khau Vai”, “Mai Hắc Đế”, “Hừng đông”, “Thầy Ba Đợi”, “Ngàn năm mây trắng”…. và hai tập thơ “Về lại triền sông” và “Nhớ thương ở lại”. Ngoài ra, ông còn gánh trên vai nhiều trọng trách với tư cách là một vị lãnh đạo, là Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương. Mặc dù bận rộn với công việc, ông vẫn luôn dành thời gian cho văn chương. Gần đây, ông còn xuất hiện với một vai trò mới – một tiểu thuyết gia với “Chuyện tình Khau Vai” (ra mắt vào năm ngoái) và mới nhất là tiểu thuyết “Hừng đông”, do NXB Văn học ấn hành. Để hiểu thêm về cuốn sách này, chúng ta cùng nghe cuộc trò chuyện giữa nhà văn Nguyễn Thế Kỷ với phóng viên chương trình.
Có một thực tế là những người trông coi nhà Thánh thường khiếm khuyết về thể chất, hoặc là ngoại hình xấu xí hoặc là thiếu khuyết một vài giác quan như nghe, nói, nhìn… có thể khi thiếu khuyết con người ta cần đến chốn thần linh để nương nhờ, tựa bám mà sinh tồn cũng có thể vì thiếu khuyết mà người ta được bù trừ những khả năng khác biệt. Cô Trinh trong truyện ngắn “Tiếng chuông đền Diềm” thiếu khuyết cả nhan sắc, ánh nhìn, giọng nói, nhưng bù lại, cô có niềm tin và sự tôn thờ tột bậc với Đức Ông và người dân làng Diềm. Với cô, việc phụng sự Đức Ông, giúp Đức Ông vỗ về che chở sự bình yên cho người dân làng Diềm là bổn phận, là thiên mệnh, là tất cả ý nghĩa đời sống của cô trên trần gian. Bởi vậy mà cô dành tất cả tình yêu thương trong sáng và trái tim tận hiến để chăm chút ngôi đền, giữ gìn bài thuốc quý gia truyền để chữa bệnh về thể chất cho dân làng Diềm, nâng niu an ủi những tâm hồn người bấy bớt giúp họ vượt qua ngang trái đời thường. Cũng bởi trái tim tinh nhạy ấy mà cô Trinh nhìn được rõ nét một vài khoảnh khắc đặc biệt của con người, khi họ tột cùng đau khổ, tột cùng trong sáng, tột cùng yêu thương. Cũng bởi trái tim thánh thiện chỉ biết yêu thương tận hiến, chỉ biết cho mà chưa bao giờ được nhận, nên Trinh không nhìn được những lừa lọc dối trá những cám dỗ ma mị của dục vọng để rồi bị cuốn vào vòng xoáy của tiếng sét ái tình. Biết mình đang bị cuốn trong dòng nước xiết của những đòi hỏi bản năng đàn bà, Trinh một lần nữa lại dựa vào Đức Ông, dựa vào trời đất núi sông và người dân làng Diềm mà vượt thoát. Trong cuộc vượt thoát ấy, Trinh nhận ra cả phần xác và phần hồn của làng Diềm cũng cần được cứu rỗi. Cô thỉnh tiếng chuông kêu cứu. Tiếng chuông đền Diềm chỉ vang lên khi làng có việc trọng. Nhưng từ khi đỉnh núi Móc có ngôi chùa lớn, tiếng chuông trên đỉnh núi vang lên hàng ngày để các đoàn khách hành hương gửi lời thỉnh cầu đến cao xanh. Tiếng chuông kêu càng nhiều, chứng tỏ khách càng đông, người làng Diềm càng có cơ hội làm giàu. Bởi vậy không còn mấy người trong làng phân biệt được tiếng chuông đền Diềm và tiếng chuông trên đỉnh núi Móc nữa. Giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc văn hoá dân tộc là một trong những bộ gen quan trọng làm nên hình ảnh riêng biệt của quốc gia, dân tộc trong thời đại thế giới phẳng. Song trong điều kiện mở cửa, hội nhập và phát triển hiện nay, đặc biệt, dưới tác động nhiều chiều của nền kinh tế thị trường, việc gìn giữ, phát huy giá trị văn hoá truyền thống không dễ dàng gì. Truyện ngắn “Tiếng chuông đền Diềm” là sự trăn trở về những được - mất trong quá trình vươn lên làm giàu bằng du lịch tâm linh ở một làng quê nghèo, cũng là tiếng chuông thỉnh gọi những tấm lòng biết hiểu, biết yêu, biết giữ gìn những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc trong thế giới đa diện hôm nay...(Lời bình của BTV Vân Khánh)
Nhà văn xứ Thanh Lê Ngọc Minh-Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Điện ảnh Việt Nam, ngoài sáng tác kịch bản phim, anh còn viết tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký và lý luận phê bình. Lê Ngọc Minh được đánh giá là cây bút với những truyện ngắn mang hơi thở dồn dập của đời sống hiện đại. Tuy vậy, những truyện ngắn để lại dấu ấn trong lòng người đọc người nghe hơn cả là những truyện anh viết về quá khứ, về kỷ niệm thuở học trò, về thầy giáo, bạn học cũ…những câu chuyện đó giản dị nhưng giàu tính nhân văn. Chương trình Đọc truyện đêm khuya hôm nay xin được giới thiệu với các bạn một sáng tác như thế của nhà văn Lê Ngọc Minh. Đó là truyện ngắn "Thợ cả"
Ngay từ nhan đề “Gót đỏ chân son”, nhà văn Trần Chiến đã thu hút sự chú ý của độc giả, trước hết là bởi sự ấn tượng của hình ảnh, sau là vì nó gợi nhớ những câu ca: “Còn cha gót đỏ như son – Đến khi cha thác gót con đen sì – Còn cha nhiều kẻ yêu vì – Đến khi cha thác ai thì thương con”. Viết về Sơn – một cậu bé mồ côi cha, nhà văn Trần Chiến không chọn một cách kể khiến người ta phải sụt sùi thương xót ngay từ đầu, mà lại chọn giọng kể tưng tửng từ ngôi thứ nhất. Sơn có thân phận như bao đứa trẻ khác lớn lên từ làng, bỏ học, rồi nhanh chóng nhập vào đội quân lên thành phố làm thuê. Năm năm tháng tháng, mơ ước đổi đời nơi phố thị vẫn còn, nhưng cũng đã lấm lem những cay đắng thị thành… Qua con mắt của một đứa trẻ, hành trình đi từ xóm “liều”, khu trọ “đen”… rồi “khách sạn” Xa mẹ được Sơn kể lại một cách hồn nhiên. Câu chuyện cuộc đời của nhiều người khác cũng thấp thoáng trong hành trình ấy. Có chú Hệ bị quỵt tiền đi xuất khẩu lao động, chuyện các bà ô-sin, dân lao động tụ tập nói đủ thứ chuyện không hiểu nổi về thành phố… “Gót đỏ chân son” trước hết là câu chuyện về thân phận của một người quê lưu lạc phố phường; sau có thể coi là chân dung phố thị qua mắt của người ở quê ra – một bức chân dung mà nét hào hoa đã dần nhường chỗ cho những góc còn khuất lấp, rằng phố thị hoa lệ nhưng là hoa cho người giàu còn lệ cho người nghèo. “Gót đỏ chân son” kết lại trong những suy nghĩ vẩn vơ của Sơn. Còn quê đấy, nhưng về quê thì làm gì? Chừng nào câu chuyện việc làm ở làng quê vẫn còn là một câu hỏi, thì chừng ấy chúng ta vẫn còn những người như Sơn, như chú Hệ, vất vưởng mưu sinh nơi phố thị, biết bao giờ mới được “gót đỏ chân son”? (Lời bình của BTV Nguyễn Hà)
Nếu chỉ một lần tới ngó nhìn những cánh rừng già mải miết dọc dài sông Giăng, viết làm sao nổi câu chuyện không dứt, không nguôi ngoai hồng hoang, huyền hoặc. Tác giả Hữu Vi chia sẻ rằng đúng là “Khánh bạc leng keng” mượn khung cảnh quê hương của anh, miền núi xứ Nghệ nơi người ta đã và vẫn còn sinh nhai bằng nghề săn thú rừng. Nơi đó, thiên nhiên không chỉ là môi trường sống mà với người bản địa còn là tâm linh. Khánh bạc leng keng hay là thứ âm thanh nhắc nhủ lay động lòng người. Chuyện như được kể từ thời xa lắm. Cái thời mà đôi khánh bạc trai gái trao lời ước hẹn, thời truy vượn, tìm gấu, săn hổ, săn nai. Thời thao thiết rưng rưng câu chuyện người rừng bơ bơ, lạc lối. “Khánh bạc leng keng” kể chuyện bằng nhịp tâm trạng, mà điệu thê lương, tăm tối, mịt mùng xâm lấn, bao phủ đôi khi như muốn nhấc bổng cả ý tưởng giản đơn của tác giả lúc ban đầu vì anh chỉ muốn gửi gắm một điều rằng chính những người miền núi cũng đang băn khoăn không biết nên ứng xử thế nào để hài hòa với thiên nhiên mà không làm hại đến điều mà với họ rất đỗi thiêng liêng. Tình yêu và ẩn ức. Hồi kết nào của cuộc săn, sau tàn sát chắc gì đã ngây ngất mãi niềm vui sướng của kẻ thắng? Tác giả Hữu Vi không một lời lên án bàn tay đã bấm cò lên khẩu súng săn. Thế nhưng rõ ràng chúng ta đã đọc được rơm rớm niềm đau trong những yếu ớt, lặng câm, gục ngã cầm thú. Người viết và cả chúng ta đã cảm nhận được rằng những con thú cũng có trái tim, cũng biết quẫy đạp cầu cứu trong vô vọng. Và như những vết cứa từ lời cảnh tỉnh vang lên trong tiếng khánh bạc leng keng…(Lời bình của BTV Võ Hà)
Người đọc, người nghe nhiều lúc phải bật cười trước câu chuyện của anh chàng Đặng Thành Thật. Trước khi lên đường thực hiện 18 tháng nghĩa vụ quân sự, Đỗ Thành Thật được nhiều kinh nghiệm quý khi ngủ với ông nội. Đỗ Thành Thật sinh ra trong một gia đình có truyền thống Cách mạng khi ông nội là lính chống thực dân Pháp và cha là lính đặc công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Thế nhưng cũng như phần lớn các chàng trai sinh ra trong thời bình, việc nhập ngũ, trở thành người lính là công việc rất mới mẻ, lạ lẫm. Đời người lính xưa được ông nội của Thật kể lại rất sinh động, giàu cảm xúc. Đó là cuộc sống với những buồn vui, vất vả, hi sinh cùng nhiều kỉ niệm đặc biệt như việc ông nội bị ghẻ như thế nào rồi cha của Thật hi sinh khi phá bom mình của địch. Cuộc sống và chiến đấu của người lính xưa hiện lên trước mắt chúng ta như một bức tranh nhiều màu sắc. Câu chuyện ông nội kể khiến Đỗ Thành Thật háo hức, chờ đón quãng thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự sắp tới. Và khi trở thành anh lính trẻ, Thật không đối mặt với quân địch như cha, như ông mà phải thực hiện kỉ luật quân đội, rèn luyện sinh hoạt, kĩ năng người lính. Sau thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự, Thật học được nhiều tính tốt như kỉ luật, tự giác, kiên trì. Chỉ 18 tháng thôi nhưng quân đội đã rèn rũa chàng thanh niên trẻ trưởng thành hơn nhiều. Truyện ngắn được kể với giọng lính trẻ tếu táo tự nhiên hóm hỉnh có nhiều chi tiết đời thường, giọng điệu kiểu “chuyện kể ở đại đội” hay “chuyện kể của lính” thể hiện cuộc sống người lính xưa và nay trong việc rèn luyện, chiến đấu. Cuộc sống của người lính hôm nay tuy có nhiều khác biệt so với cha ông nhưng những phẩm chất tốt đẹp vẫn được lưu giữ. Việc trở thành người lính bảo vệ quê hương vẫn luôn là trách nhiệm và niềm tự hào của thế hệ thanh nhiên hôm nay.
Vấn đề được đặt ra trong truyện ngắn “Thằng chăn vịt” vẫn là nỗi trăn trở về việc làm. Không phải làng Việt nào cũng có một ngành nghề truyền thống để có thể phát triển. Ở những ngôi làng thuần nông, người nông dân quanh năm phải sống với việc chăn nuôi và đồng ruộng. Cả hai việc này đều rất vất vả, thu nhập lại bấp bênh. Chính vì vậy, tư tưởng phải thoát khỏi làng để đổi thay cuộc sống đã manh nha xuất hiện, đặc biệt ở lớp trẻ. Thêm nữa, khi các nhà máy, công xưởng mọc lên ở nông thôn trong cơ chế đô thị hóa nông thôn thì việc người nông dân bỏ ruộng, ô nhiễm môi trường… trở thành một vấn đề nhức nhối. Trong truyện ngắn này, tác giả đã đề cập đến, tuy mới chỉ bắt đầu nhưng rõ ràng đã có những dự báo không mấy tốt lành. Hình ảnh làng quê của Thịnh và Phúc mà theo cách nói của Phúc là như hình thù một cái bào thai không bao giờ chịu lớn là một chi tiết gợi nhiều suy nghĩ. Liệu rằng làng quê ấy có thoát khỏi sự quẩn quanh, nghèo đói khi mà nông dân bỏ ruộng lên thành phố làm ăn, thanh niên ăn chơi lêu lổng, dự án làm nhà máy chưa thực hiện nhưng đồng ruộng đã bỏ hoang..Tác giả Đặng Ngọc Hưng chia sẻ rằng “Tôi chỉ biết cuộc sống của người nông dân qua góc nhìn hạn hẹp của người đứng ngoài nhìn vào, từ xa nhìn lại. Tôi không dám phán xét mà chỉ mô tả lại những sự thay đổi từ cái cũ sang cái mới và ít nhiều suy nghĩ”. Vâng, điều mà tác giả bày tỏ cũng là điều mà người đọc, người nghe đặt ra những câu hỏi về sự đổi thay này khi mà cuộc sống ở nông thôn đang chuyển mình chật vật và nhiều biến động… (Lời bình của BTV Vân Khánh)
Câu chuyện mang đến cho mỗi chúng ta cảm giác thân thuộc gần gũi bởi dường như mỗi làng quê Việt qua tầng tầng thế hệ luôn ẩn chứa vô vàn những câu chuyện (cổ xưa cũng có hiện tại cũng có) để người làng có thể truyền tụng, bàn tán, kể cho nhau nghe. Trong những câu chuyện đó dĩ nhiên không thể thiếu những nhân vật mang tính huyền thoại, đời sống riêng tư có phần khác lạ, không chỉ nhuốm màu sắc kỳ bí mà thậm chí còn mang tính ma mị, giật gân, gây tò mò…..Trong đó không biết có phải một phần cũng để dọa con trẻ hay không nữa? Nhân vật bà Miên trong truyện ngắn “Gốc đề” được nhà văn Hoàng Anh Tuấn kể cũng là một nhân vật như thế trong mắt của hai đứa trẻ Việt – Hưởng. Người như bà Miên được xây dựng nửa khôn nửa dại, nửa điên nửa tỉnh, nửa âm nửa dương, khác thường lập dị. Những người như bà đa phần sống cô độc, dễ bị người xung quanh hiểu sai, xa lánh, là đối tượng của đám trẻ con tò mò, vừa sợ hãi lại vừa thích trêu chọc. Sư thật về cuộc đời bà Miên chỉ được mở ra khi có lời kể của bà nội Hưởng. Vậy ra bà lại là một thân phận bé mọn, đáng thương, bị cuộc đời xô đẩy, sống lặng lẽ, chịu nhiều thiệt thòi. Một kiếp người không được chính danh, thực chất bà Miên là Mẹ Việt Nam Anh hùng có hai người con trai hy sinh vì tổ quốc.
Câu chuyện trở nên có ý nghĩa khi tác giả chọn giọng kể, góc quan sát là những người trẻ, Việt – Hưởng . Vậy ra những đứa trẻ đâu thờ ơ với quá khứ. Họ cần phải được biết về gốc rễ, quá khứ để gắn bó hơn với quê hương, với những người xung quanh, với hiện tại. Một kết truyện đầy nhân văn...(Lời bình của BTV Tuyết Mai)
Truyện ngắn gồm hai nhân vật chính: Jim và Della. Hai vợ chồng thuộc tầng lớp lao động nghèo, sống trong một căn hộ sơ sài với giá thuê là 8 đô la một tuần. Bối cảnh của truyện là ngày giáng sinh sắp đến và cả hai vợ chồng đều nghĩ rằng mình cần tặng một món quà gì đó thật đẹp, thật ý nghĩa cho người mình yêu thương. Hoàn cảnh sống khó khăn đã không cho phép họ làm việc đó một cách dễ dàng. Jim đã phải bán đi món đồ quý giá nhất của anh là chiếc đồng hồ quả quýt gia bảo, còn Della cũng phải bán đi mái tóc dài óng ả là thứ mà hàng ngày cô rất nâng niu. Tình huống oái oăm nảy sinh ở chỗ món quà Jim mua về cho vợ là bộ lược cài đầu mà Della từng mơ ước, trong lúc giờ đây mái tóc dài không còn nữa. Và món quà Della nghĩ rất phù hợp với chồng là sợi dây bạch kim sang trọng, chuyên để đeo những chiếc đồng hồ quả quýt, thì lúc này đây chiếc đồng hồ của Jim cũng đã không còn. Tình thế này như đẩy hai nhân vật chính của chúng ta vào chỗ dở khóc dở cười bởi hai món quà tặng với rất nhiều tâm huyết bỗng trở thành những vật vô dụng khi trước mắt không thể dùng được, mà hai vợ chồng thì nghèo vẫn hoàn nghèo. Điều duy nhất sưởi ấm trái tim hai con người ấy là họ hiểu được, cảm nhận được về tình yêu mà họ đã dành cho nhau. Và có lẽ, tình yêu ấy mới là thứ quý giá nhất, vượt lên hết thảy những món quà vật chất trên đời. Có thể xem "Quà tặng của những thiên thần" là một truyện ngắn rất tiêu biểu cho phong cách Ô Hen-ry. Các nhân vật của ông thường có hoàn cảnh sống khá khó khăn, thiếu thốn nhưng họ đều là những con người lương thiện, có trái tim nhân hậu, biết yêu thương và chia sẻ. Cách dẫn truyện của Ô Hen-ry luôn lôi cuốn, khéo léo, tạo ra sự tò mò và thu hút người đọc theo dõi đến những trang cuối cùng. Và rồi phần kết của mỗi tác phẩm luôn mang lại nhiều cảm xúc bất ngờ, nhưng lắng đọng lại luôn là một nỗi xúc động chứa chan...(Lời bình của BTV Đỗ Anh Vũ)
Mạch chuyện khá đơn giản khi kể lại việc một người đàn ông trung niên đi xin việc. Ông vô tình nhìn thấy kỉ vật xưa là chiếc khung ảnh cũ và hồi tưởng lại thời trai trẻ của mình. Ông và cô gái Sundari yêu nhau say đắm nhưng rồi ông phản bội cô. Hơn 20 năm sau, ông gặp lại câu con trai nhưng không dám nhận con của mình. Câu chuyện là hành trình tìm lại quá khứ cũng như thức tỉnh của người đàn ông tên Shatri ẩn chứa nhiều điều về giá trị sống. Khi còn trẻ bằng vẻ ngoài bảnh trai và lời ong tiếng mật, chàng trai Chandran đã lừa cô gái Sudari đến với mình. Nhưng khi đã đạt được nàng thì anh không thực hiện lời hứa sẽ tổ chức một đám cưới đàng hoàng. Sundari ngỡ ngàng khi bị người mình yêu bỏ rơi. Cậu con trai được mẹ nuôi dậy khôn lớn và luôn nghĩ cha mình là người tốt. Chúng ta thấy sự đối lập trong nhân cách giữa hai nhân vật Shatri và Sundari. Trong lúc Sahtri lợi dụng sự ngây thơ trong sáng của cô gái trẻ để lừa dối rồi phản bội nàng thì Sundari lại vẫn giữ gìn hình ảnh của ông trong mắt con trai. Sự phản bội nào cũng mang đến nỗi đau và vết thương lòng sâu sắc. Thế nhưng bà Sundari đã giấu nỗi đau trong lòng để làm ảnh hưởng tính cách, nhân cách cậu con trai. Câu chuyện xúc động được viết nhẹ nhàng với nhiều chi biết bất ngờ. Chi tiết bất ngờ đầu tiên là khung hình cũ trong phòng vị giám đốc trẻ khiến ông Shatri tìm thấy con trai sau nhiều năm xa cách. Bất ngờ thứ 2 là ông không dám nhận con mình. Đáng lẽ một con người thất nghiệp đã ở tuổi xế chiều như ông sẽ bám víu vào người con thành đạt. Nhưng ông không làm vậy. Có lẽ lương tâm ông đã thức tỉnh. Ông không muốn hình tượng cao đẹp về người cha trong lòng con xụp đổ. Đó cũng là điều duy nhất ông có thể làm để chuộc lại lỗi làm bà Sundari và con của mình. Truyện ngắn đề cao những giá trị đạo đức của con người. Ngày hôm nay khi bạn phản bội, lừa đối người tin tưởng mình thì rồi sớm muộn chúng ta phải trả giá vì điều đó...(Lời bình của BTV Hoàng Hiệp)
Truyện ngắn “Mùa hoa núi” đã đẫn dắt người đọc, người nghe đến với không gian văn hóa vùng cao của người dân tộc Tày, Mông với những nét phong tục tập quán xưa cũ. Nhà văn Tống Ngọc Hân khai thác triệt để khía cạnh này với nhiều chi tiết, tình tiết hấp dẫn. Nét đặc sắc của văn hóa vùng cao không chỉ thể hiện bởi phong tục, tục lệ. Với sự quan sát tinh tế, nhà văn đã miêu tả đặc sắc nhất trong văn hóa ấy là ứng xử giữa người với người, giữa người với vật, giữa người với thiên nhiên. Truyện kể về một trong những mối ứng xử được cho là khó nói đến nhất, khó biểu hiện nhất, đó là ứng xử của những người đã từng yêu nhau. Sự ứng xử của hai người đàn ông một thời từng yêu một người phụ nữ, như mọi người thấy, phiên chợ cuối năm ở một bãi rừng trống trải hun hút gió, buốt lạnh nhưng mùi ly núi thì cứ ngào ngạt chiếm lĩnh bao phủ và tình người thì cứ ấm nồng như vậy. Đâu đó trong cuộc đua của thời đại, những xoay vần, suy biến, mai một, vẫn có những điều đẹp đẽ như thế hiển hiện và việc của người viết là lan tỏa những giá trị ấy. Để làm nổi bật thông điệp của truyện, nhà văn đã đưa vào những phong tục tập quán một cách chọn lọc. Cụ thể ở đây là phong tục tìm hiểu, yêu đương và kết hôn. Mâu thuẫn của câu truyện cũng từ đây mà sinh ra. Cái khát vọng được làm chủ cuộc đời, được chọn lựa hạnh phúc của con người mỗi ngày mỗi lớn. Họ luôn muốn thoát khỏi sự sắp đặt, dù sau đó cuộc sống chông chênh, muôn phần khó khăn. Cả hai người đàn ông đi qua đời Pằng rồi cũng đã lần lượt có vợ, có gia đình, tổ ấm. Chỉ mình Pằng, một mình đương đầu với nỗi bất hạnh. Mà hai người đàn ông ấy, nhìn xa, nghĩ sâu, đều thấy mình là người có lỗi, góp phần đưa đẩy Pằng đến hoàn cảnh hiện tại. Nên họ không thể quay lưng. Và dù, ban đầu có chút miễn cưỡng, nhưng rồi Pằng vẫn vui vẻ đón nhận những ân tình, chia sẻ ấy. Truyện gửi gắm thông điệp nhân văn sâu sắc về tình đời, tình người nơi vùng núi cao điệp trùng mây gió…
Nhân vật chính trong truyện ngắn chúng ta vừa nghe chỉ được gọi là “hắn” chứ không có một cái tên cụ thể. Có thể đó cũng là dụng ý của tác giả để nhấn mạnh nhiều hơn đến tính đại diện và khái quát của nhân vật này. “Hắn” có thể là bất kỳ một người nông dân nào của nông thôn Việt thời hội nhập và bất kỳ người nông dân nào cũng có thể chính là “hắn”. “Hắn” vốn được xây dựng như một nhân vật chính diện, tích cực, chí thú làm ăn, thông minh và giàu sáng tạo. Anh ta đã từng làm thứ gì là thành công thứ đó. Trồng cà phê xen lẫn cây ăn trái cho mùa bội thu, nuôi lợn nuôi gà lớn nhanh như thổi, cho trứng cho thịt thơm ngon được mọi người tin dùng. Anh còn chế tạo thành công máy thái nghiền nén để làm thức ăn tổng hợp cho gà, lợn. Những thành công của anh đã được truyền hình địa phương tuyên dương, làm gương cho mọi người học tập. Thế nhưng, mọi chuyện đã thay đổi khi nông thôn được đô thị hóa, đất làng biến thành đất vàng. Những khoảng không rộng rãi thoáng đãng không còn nữa, thay vào đó là những ngôi nhà cao tầng mọc lên chi chít. Việc chăn nuôi của “hắn” bắt đầu bị ảnh hưởng, ảnh hưởng ngay từ chuyện phơi cám viên. Việc đô thị hóa kéo theo nhiều hệ lụy, trong đó có cả biến đổi khí hậu. Những viên thức ăn tổng hợp một thời là niềm tự hào hãnh diện của “hắn”, bây giờ vì những viên thức ăn ấy mà “hắn” bị kỷ luật, phê bình, cơ sở sản xuất thức ăn của “hắn” bị đình chỉ hoạt động. Nhân vật “hắn” đứng trước nguy cơ giã từ tất cả những công việc yêu thích của mình, đúng như nhan đề tác phẩm đã gọi tên. Những mặt trái của quá trình đô thị hóa nông thôn là điều mà những người có trách nhiệm chưa thể lường trước hết. Bắt đầu từ bi kịch, từ nỗi buồn của một nhân vật cụ thể, nó khiến chúng ta phải suy nghĩ nhiều hơn về bao mảnh đời khác, bao câu chuyện khác. Cuộc chuyển đổi giữa nông dân sang thị dân quả thực đã kéo theo không ít xót xa…(Lời bình của BTV Đỗ Anh Vũ)
Một câu chuyện rất dễ kể lại, không có nhiều nhân vật và các tình huống thắt mở nút, mâu thuẫn, cao trào nhưng lại khiến người nghe đồng cảm, bởi giọng kể tự nhiên, chân thật của tác giả. Bà Chín sinh ra trong một gia đình khó khăn, con đông, tía má vất vả kiếm miếng ăn nuôi sống đàn con. Tám anh chị em, đứa được đi học đứa phải nghỉ học. Đến khi trưởng thành, cuộc đời bà cũng đâu có sung sướng gì. Mặc cảm với bản thân, bà ở vậy một mình. Cũng vất vả, đầu tắt mặt tối, chả khi nào ngẩng đầu lên được để mà nhìn trời nhìn đất, nhìn cuộc sống chảy trôi làm sao. Mà đâu chỉ riêng bà Chín, số phận bà cũng là số phận chung của người dân cái ấp nghèo nơi cù lao xa xôi, lạc hậu này. Tưởng rằng, gần cuối đời, cuộc đời bà Chín sẽ chỉ quanh quẩn nơi góc nhà chái bếp với con Na, chẳng bao giờ có điện chỉ để mong được xem cải lương cho đã…Nhưng thật bất ngờ, điện đã được kéo ra tận cù lao-một thứ ánh sáng trắng không còn dành riêng nơi đô thị, nó sẽ lan tỏa khắp vùng quê, cù lao sẽ được thay áo mới, lớp trẻ sẽ không còn vất vả, thiệt thòi như ông, bà của chúng ngày xưa. Chính ánh sáng trắng đã xua đi cái lạc hậu, tối tăm và thắp lên hy vọng đổi đời cho bà Chín cũng như bao phận người thôn quê khác (Lời bình của BTV Vũ Hà)
Vắn gọn nhưng cô đọng, “Lời páo dung trong sương” thu hút người đọc từ những dòng đầu tiên. Có ai lại hờ hững với những chuyện lạ lùng, có phần li kì, nhất là những chuyện ấy lại là của một người đẹp. Cuộc đời Mùi Tá có nhiều khúc truân chuyên. Nhưng có vẻ tác giả Vi Thị Thu Đạm không mấy bận tâm tới việc nhân vật đã vượt qua những khó khăn như thế nào. Lần Mùi Tá bị bố đánh gẫy chân, không cho đi học, cô chỉ cười. Chuyện gì đã xảy ra trong lần đầu tiên Mùi Tá bỏ nhà bố đẻ hay ba lần rời nhà chồng, tác giả cũng không kể… Chỉ vẻn vẹn trong mấy trang truyện, Mùi Tá – từ khi còn ở tuổi thiếu nữ cho tới khi là góa phụ 19 tuổi, đem đến cho người đọc nhiều câu hỏi “tại sao?”, “vì đâu” nhưng đều không nhận được câu trả lời rõ ràng. Những điều chi tiết cụ thể trong cuộc đời cô gái dường như cũng bị sương mù trên đỉnh Sơn Mẫu che phủ, nhưng dẫu vậy cũng đủ để người ta thấy xót thương. Cuộc đời của Mùi Tá đã sớm chịu cảnh bỏ học giữa chừng, làm vợ, làm mẹ khi còn quá trẻ, và rất có thể, cô đã chịu những giày vò khác trong những lần bỏ bản mà đi. Chồng mất, con thì đã bán, Mùi Tá dường như chẳng còn gì ngoài lời páo dung trong sương. Nhưng ngay cả lời páo dung cũng buồn bã xiết bao: “Không thể không gặp bởi lòng quá nhớ / Chả lẽ để nỗi nhớ trong lòng năm này qua năm khác…” (Lời bình của BTV Nguyễn Hà)