
Câu chuyện kể về tình yêu ngang trái của người lính qua lời kể của người em trai cho con trai thật ám ảnh và day dứt. Còn gì đau đớn hơn khi người đàn ông đang ôm súng ngoài chiến trường thì biết vợ mình ở nhà tằng tịu với người đàn ông khác. Đau đớn hơn nữa là người phụ nữ ấy kiên quyết chạy theo những mê lầm dục vọng một cách công khai trắng trợn. Vì lý do gì mà người đàn ông ấy lại tha thứ cho vợ hết lần này đến lần khác. Để giữ một gia đình cho con? Hay vì hoàn cảnh xuất thân không thể có hai chữ ly hôn trong lý lịch. Hay vì yêu, vì sự nhẫn nhịn bao dung của một người lính? Câu trả lời lại nằm cả ở sự im lặng triền miên của người đàn ông này. Một sự im lặng đau đớn để các con trưởng thành. Bây giờ người lính ấy đã già. Chỉ còn lại những tiếng thở dài hắt ra tội nghiệp từ hai phía. Người lính ấy đau nỗi đau của riêng ông. Người phụ nữ đi qua bao sai lầm cũng đã biết ân hận. Nhưng nỗi ân hận muộn màng quá. Khi nỗi đau kia đã thành sẹo mất rồi. Câu chuyện khoan xoáy vào quá khứ, vào sự bội bạc mà rốt cuộc, phải nhờ đến sức tàn rữa của thời gian thì người ta mới có thể đi qua khúc sông sâu của đời mình, nguôi ngoai, không còn oán hận, đau buồn, bằng lòng với tuổi già và chờ đợi cái điều ắt rồi sẽ tới: cái chết.“Đến một lúc nào đó, ngay cả sự rõ ràng người ta cũng không để tâm nữa thì còn sá gì đau đớn. Và nỗi niềm kia đã hóa thạch mất rồi”. Câu cảm thán của người lính cứ ám ảnh, day dứt mãi, một vết thương lòng chẳng bao giờ lành…(Lời bình của BTV Vân Khánh)

Câu chuyện chúng ta vừa nghe có khoảng thời gian trải dài qua 20 năm. Cách dẫn truyện tạo được không khí tự nhiên, lôi cuốn, xen lẫn những hồi hộp thú vị qua lời kể của nhân vật Hảo, xưng tôi. Hảo kể lại câu chuyện của mình với người bạn cùng phòng và đồng thời câu chuyện ấy được gửi tới tất cả những người nghe, người đọc. Đúng như tên của tác phẩm đã bộc lộ, hạt nhân chính của truyện ngắn này là câu chuyện tình giữa Hảo và Mận, một chuyện tình sinh ra vừa như một bất ngờ, vừa như một tất yếu, vừa như một run rủi trong cái đêm ở làng Sầu thời chiến. Cái đêm ngủ với Mận đã qua đối với Hảo như một giấc mơ, một tưởng tượng, một cái gì mờ ảo, không rõ ràng, khó nắm bắt. Và rồi những bộc lộ của Mận sau đó với Hảo có lẽ đã xác tín hơn trong anh về một mối tình có thật, một đêm yêu đương có thật. Nhưng bất ngờ hơn cả là giọt máu Hảo đã để lại cho Mận, để rồi 20 năm sau , khi Mùi, con gái Mận đỗ đại học ở Hà Nội thì Mận mới có một đêm hạnh phúc thứ hai được bên người mình yêu. Chiến tranh đã tạo nên quá nhiều những éo le và trớ trêu. Chúng ta có nên trách Hảo, dù biết Mận có chồng đang đi bộ đội mà vẫn không kiềm chế được cảm xúc của bản thân, khiến Mận có thể phải mang tiếng xấu với gia đình, làng xóm? Chúng ta có cảm thấy nỗi đau của Kỳ, người chồng chính thức của Mận, trở về từ chiến trường với mảnh đạn trong đầu rồi sau đó lao xuống giếng kết thúc cuộc đời? Có những điều mãi mãi không thể nói ra, chỉ mỗi người tự biết với lòng mình và cố gắng sống sao cho tốt hơn mỗi ngày, sống có trách nhiệm hơn với những người xung quanh, những người mình đã từng yêu và cũng yêu thương mình. Sự thành đạt của Mùi, con gái Mận và Hảo có lẽ là một điểm sáng quan trọng trong phần kết thúc của truyện, gieo vào mỗi chúng ta những ấm áp và tin yêu. Câu chuyện tình dù trái ngang nhưng cũng đem đến những hạnh phúc không nhỏ cho mỗi người trong cuộc và biết đâu nó còn tiếp thêm không ít sức mạnh để một người phụ nữ có thể vượt qua bao năm tháng đằng đẵng, mòn mỏi chờ người chồng từ chiến trường trở về. Cái đúng và cái sai trong mỗi hành trình của cuộc đời nhiều khi chỉ mang ý nghĩa tương đối mà thôi. Chính sự bất toàn và không định trước mới làm nên một thứ mà chúng ta vẫn quen gọi là Số Phận. (Lời bình của BTV Đỗ Anh Vũ)

Truyện ngắn sinh động giàu cảm xúc về cuộc sống của người dân ở nơi hậu phương trong bối cảnh của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước. Nhân vật chính của câu chuyện là chú chó Đốm để tác giả nói tới tình cảm con người và loài vật trong chiến tranh. Đốm là chú chó thông minh, tài giỏi và trung thành. Đốm đã 2 lần lập công lớn khi giúp lính biên phòng và dân quân tóm gọn 2 tên biệt kích và 1 tên giặc lái. Khi cậu chủ là Đoàn ra trận thì Đốm trở thành người thân duy nhất của chị Vinh. Đốm chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, nỗi nhớ người thân của chị Vinh. Chú chó là người bạn lúc chị Vinh cô đơn nhất, là người bảo vệ chị Vinh trong ngày tháng anh Hoàng và Đoàn xa cách. Lồng ghép trong câu chuyện về chú chó Đốm là cuộc sống chiến đấu, lao động của người dân nơi hậu phương trong chiến tranh. Cuộc sống của người dân cũng gian khổ không kém những người lính chiến đấu ngoài mặt trận. Cuộc sống vừa lao động sản xuất để chi viện cho chiến trường vừa chiến đấu chống lại sự phá hoại của địch được miêu tả qua những lần bắt giặc lái, bắt lính biệt kích Hay những phút yếu lòng, cô đơn của người phụ nữ có chồng biền biệt nơi phương xa. Nếu không có Đốm thì có lẽ chị Vinh đã không giữ được mình trước tình cảm của anh phó phòng văn hóa trẻ trung, ngọt ngào. Tình người, tình đời và cả tình cảm vật nuôi được thể hiện qua nhiều chi tiết của truyện ngắn. Việc chị Vinh chăm sóc chu đáo cho con Đốm không chỉ thể hiện tình cảm của chị với con vật trung thành, gắn bó mà còn gửi gắm tình cảm của cô với người thân nơi chiến trận. Nhiều chi tiết xúc động về tình cảm của Đốm với chủ của mình như việc nó liếm di ảnh của Đoàn khi đưa người lính đã hi sinh về quê hương. Hay chi tiết Đốm buồn chán nằm chết trên mộ chủ mang đến nhiều xúc động cho người đọc, người nghe. Truyện ngắn cũng có chi tiết khá khôi hài khi anh Hoàng bao năm chiến đấu ác liệt ngoài chiến trường lành lạnh trở về thì lại bị thương vì chó nhà mình cắn. Với giọng văn dung dị mà giàu cảm xúc, cách lựa chọn chi tiết khá đặc sắc đã khiến truyện ngắn “Con Đốm” của tác giả Nguyễn Hùng Sơn để lại nhiều ấn tượng với người đọc, người nghe.

Ngay từ nhan đề, “Trở về xóm Doi” của tác giả Sơn Trần đã báo trước một chuyến đi trở về nơi chốn cũ – nơi nhân vật “tôi” sinh ra và lớn lên. Kí ức dần hiện về từ tên xóm, tên người. Ở cái doi cát chồm ra khỏi bờ sông là là bao nhiêu chuyện đời éo le: chị Sa xinh gái đi làm bia ôm mong đổi đời, ông thầy cúng tên Nhịn hóa ra là một tay biến thái chuyên nhắm vào đám thanh niên trai tráng để làm trò xằng bậy. Nhân vật “tôi” thì mắc kẹt trong tình cảm tuổi mới lớn với Hiền, con gái ông Nhịn. Truyện viết có lớp lang. Các tình tiết đan vào nhau, cùng với những mối quan hệ của nhân vật khiến mọi chuyện không được nói ra một cách rõ ràng mà như phủ lên một lớp sương huyền ảo. Truyện ngắn, vì thế, mà vừa nhuốm màu kí ức, vừa như một cơn mộng mị kéo dài, không có cách gì thoát ra. Mỗi nhân vật trong “Trở về xóm Doi” dường như đều có một góc khuất riêng, không dễ tỏ bày. Với ông Nhịn, đó là một bí mật. Với nhân vật “tôi”, đó là một kí ức kinh hoàng. Còn với Hiền, với chị Sa, rất có thể đấy là ám ảnh về phận nghèo, mà tiếc thay, lối thoát mà cả hai lựa chọn lại là đi làm tay vịn, rồi đi lấy chồng chung ở xứ Hàn… Truyện có kịch tính, có cao trào, nhưng có cảm giác tác giả không đẩy đến cùng để nhân vật giải quyết mâu thuẫn, mà phần lớn để họ trốn chạy với những câu hỏi chưa tìm được lời đáp.

Ba người lính, ba người bạn chí cốt trong truyện ngắn của nhà văn Trung Sỹ, mỗi người đều rời chiến trường với những thương tích chiến trận, xót xa cơn đau dĩ vãng khi trở về đời thường. Thời tuổi trẻ, họ là những người lính chiến đấu quên mình vì lý tưởng. Rời quân ngũ, nhập dòng sinh nhai nhưng vẫn còn đó trong con người tất bật mưu sinh bản chất người lính trận – tình cảm, lãng mạn, trọng nghĩa tình. Chúng ta không khó để nhìn thấy một phần hình ảnh của các nhân vật Bình, Việt, Ngọc trong những bóng dáng áo lính cũ đẫm mồ hôi trên chiếc xe thồ ba bánh giữa phố phường hôm nay. Trong chiến trận, họ can trường một mất một còn, về đời thường, họ cũng như bao người, sấp ngửa vì miếng cơm manh áo. Có bao bao góc khuất trong những mảnh đời xô dạt. Những trang văn Trung Sỹ khi đắm chìm cảm thương, xáo động, lúc gọn gàng, tỉnh táo, thẳng băng - Đó là những tiếng nói từ bên trong lẫn bề ngoài, là dĩ vãng hòa lẫn với thực tại. Mất mát cơ thể, chứng tích một thời sôi nổi quên mình chỉ người trong cuộc mới hiểu thấu. Giữa các diễn biến sòng phẳng, gấp gáp mà người lính dự phần, những cơn đau lại dậy lên, nhắc nhủ về thời khắc đau thương mà hào hùng từng trải đời lính. Một tiểu cảnh vỉa hè, một hắt bóng tưởng rất đơn sơ mà chất chứa bao tâm tư, nỗi niềm là thế…(Lời bình của BTV Võ Hà)

Các bạn thân mến, nhân vật chính của câu chuyện là chàng thanh niên nhà nghèo, học giỏi phải đối mặt với bao điều khó ngờ tới khi bắt đầu đi làm. Cần vốn là người hiền lành, chăm học, là niềm tự hào của gia đình, làng xóm. Tuy nhà nghèo nhưng cha mẹ vẫn cố gắn cho Cần ăn học thành người. Với tấm bằng đỏ xuất sắc ngành phát triển đô thị ở nước ngoài, Cần háo hức mong tới ngày mình đi làm để áp dụng những gì đã học vào cuộc sống. Nghe lời sắp xếp của bố, Cần về quê với suy nghĩ vừa gần gia đình vừa có cơ hội phát triển quê nhà. Nhưng anh không được phân công đúng ngành nghề chuyên môn của mình. Cần phải đối mặt với những điều phức tạp của đời sống công chức nhiều góc khuất. Những mối quan hệ nhất thân nhì quen, tệ nạn chạy việc, quan hệ cấp trên cấp dưới, quan hệ đồng nghiêp vô cùng phức tạp khiến chàng trai hiền lành, thật thà bối rối. Đó là những điều khác hẳn những kiến thức mà Cân được học trên giảng đường. Có những người nhanh chóng thích nghi với guồng máy làm việc như vậy. Cần thì ngỡ ngàng và có phần lạc lõng nên dần dần lạc nhịp so với mọi người. Anh được điều chuyển vài vị trí khác nhau, vài công việc khác nhưng đều không phù hợp. Rồi cuộc sống cứ cuốn anh đi khiến Cần quên dần những kế hoạch, hoài bão thời mới tốt nhiệp đại học. Đùng một cái, Cần bị tố cáo nhận hối lộ trong lúc làm việc. Một cú vấp có thể khiến cuộc đời công chức của anh chấm dứt. Rồi cuộc điện thoại bất ngờ đầy ẩn ý của chị Hiền. Trước biến cố đầu đời, Cần đã dừng bước không trượt dài vào cám dỗ tình tiền. Mất 3 năm học nhiều bài học đường đời, Cần quyết định tiếp tục làm lại từ đầu với đề án ấp ủ ngày ra trường. Truyện ngắn viết rất chân thực, sinh động phản ánh được những góc khuất, những mặt tối của môi trường làm việc phức tạp. Nhiều tài năng không được trọng dụng hoặc bị sắp xếp nhầm chỗ, sai chuyên môn. Những tệ nạn này vẫn tồn tại ở nhiều vùng, nhiều ngành nghề khác nhau ảnh hưởng tới sự phát triển của xã hội, của đất nước...(Lời bình của BTV Hoàng Hiệp)

Nhà văn Phạm Duy Nghĩa từng có những tâm sự về hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn này trong một bài viết mang tên Trang đời và trang sách. Theo đó, cô gái xuống ga Vĩnh Yên vốn là một câu chuyện có thật ở ngoài đời mà nhân vật tôi trong truyện cũng chính là tác giả. Trên chuyến tàu từ Lào Cai về Hà Nội, anh đã ngồi cùng ghế với một cô gái trẻ tên là Diễm Quyên. Mọi tình tiết diễn ra y như trong diễn biến của câu chuyện chúng ta vừa nghe. Ngoài đời thực, Diễm Quyên đã theo tác giả về ký túc xá ở hẳn một tuần. Phạm Duy Nghĩa nhớ lại: “Quyên là một người khá đặc biệt. Cô chưa học hết cấp 3 và đã từng phiêu dạt trong Nam ngoài Bắc. Lần đầu được đặt chân đến một trường đại học ở thủ đô, cô rất vui và bỡ ngỡ. Trong suốt một tuần ấy, chúng tôi sống trong trẻo như đôi chim non. Tôi hì hục viết luận văn, cô thì mải mê đọc sách và tôi kinh ngạc thấy khả năng thẩm văn của cô còn tốt hơn cả một số nhà phê bình”. Phần hư cấu của Phạm Duy Nghĩa chủ yếu nằm ở cuối truyện. Nếu như Quyên ngoài đời là một cô gái bán cà phê thì Diễm trong truyện là một cô gái điếm. Nhưng chính hư cấu quan trọng này đã đẩy ý nghĩa tư tưởng, ý nghĩa nhân văn của truyện cao thêm một bậc. Văn xuôi Việt Nam hiện đại đã có nhiều đồng cảm giữa nhà văn và những cô gái giang hồ. Từ Nguyên Hồng với nhân vật Tám Bính trong tiểu thuyết Bỉ vỏ, Vũ Trọng Phụng với Huyền trong tiểu thuyết Làm đĩ và sau này là Nguyễn Văn Học với Vy trong tiểu thuyết Gái điếm; các tác giả đều bày tỏ những thông cảm, sẻ chia và nhận ra vẻ đẹp tâm hồn của những người con gái ấy. Với cô gái trong truyện ngắn của Phạm Duy Nghĩa, cô biết yêu cái đẹp của văn chương và ao ước có một tình yêu dù ngắn ngủi nhưng trong sạch, không phải là những cuộc đổi chác bán mua về thân xác.

Nhà văn Al-béc-tô Mô-ra-vi-a thường cho rằng nghệ thuật của truyện ngắn “tinh khiết hơn, cơ bản hơn, trữ tình hơn, cô động hơn và tuyệt đối hơn, so với tiểu thuyết”. Điều này thể hiện rõ ràng qua hai truyện ngắn mà chúng ta vừa thưởng thức. Hiển nhiên, “Đứa bé” và “Ông già ngu xuẩn” là hai câu chuyện khác hẳn nhau, một xoay quanh quyết định bỏ con lại nhà thờ của cặp vợ chồng nghèo, một là hành trình tán tỉnh yêu đương của một người đàn ông trung niên. Tuy vậy, dường như nhân vật chính trong cả hai truyện ngắn này đều phải đối diện với một bi kịch: người thì không thể nuôi con, người thì vì mặc cảm tuổi tác chợt thấy tình yêu với gái trẻ đã ngoài tầm với. Điều đáng chú ý là ngay với một hoặc tình huống bi kịch, nhà văn Al-béc-tô Mô-ra-vi-a vẫn có cách viết hóm hỉnh, hài hước, nhất là trong các đoạn đối thoại, khiến truyện có được nét duyên riêng. Kết truyện cũng được người viết nâng đến tầm nghệ thuật khi đưa đến một ngã rẽ đầy bất ngờ, nhưng cũng hết sức hợp lí. Với truyện “Đứa bé”, đó là một cái kết đầy nhân văn. Còn với truyện “Ông già ngu xuẩn”, đấy lại là một cái kết lạc quan và cũng… rất đời, như một lời cổ vũ người ta đến với tình yêu ở bất cứ độ tuổi nào, hoàn cảnh nào. (Lời bình của BTV Nguyễn Hà)

Nhà văn Hiệu Constant từng chia sẻ, ngay từ nhỏ, chị đã rất thích nghe chương trình Đọc truyện đêm khuya trên Đài Tiếng nói Việt Nam, và chị rất thích giọng đọc của các phát thanh viên trong chương trình này. Trong đêm thanh vắng, giọng đọc từ chiếc đài vô tri phát ra nhưng lại thấm đẫm tình người, khi thì thăm thẳm xa vời, lúc lại thì thầm như đang tâm sự với chính khán thính giả, họ như đang ở cạnh ta vậy. Truyện ngắn Dưới chân Hòn Dáu ra đời từ một tình cảm như vậy. Toàn bộ câu chuyện Dưới chân Hòn Dáu như toát lên điều gì đó huyền bí, thầm thì, mơ hồ xa vắng nhưng thực chất lại rất gần gũi qua cách kể của tác giả. Cuộc hẹn hò của Loan và Tuấn, đôi con người tưởng như chưa quen nhưng thực chất họ lại là người yêu của nhau, chỉ xa cách nhau có mấy chục năm. Lúc đầu là chương trình trò chuyện giữa đài phát thanh với khán thính giả trong đêm muộn. Hai nhân vật: Loan là nhà báo trực tổng đài và Tuấn là thính giả gọi đến, họ được mặc định là chưa hề gặp nhau, nhưng qua cuộc đàm thoại thì người đọc người nghe dần nhận ra hình như họ đã từng quen biết nhau từ lâu. Giọng văn bình thản nhẹ nhàng, không ồn ào xối xả nhưng lại sâu lắng và thấm dần vào lòng đất; giống như tình yêu thương và nỗi nhớ nhung của những người yêu nhau, và hơn thế là của người viễn xứ đối với quê hương chôn nhau cắt rốn của mình cũng vậy, không phải lúc nào cũng hiển lộ, nhưng luôn khắc khoải. Các truyện ngắn của nhà văn Hiệu Constant thường có cái kết mở. Ở tác phẩm này cũng vậy, hình ảnh ở phần kết truyện khi hai con tàu giao nhau trên biển, hai nhân vật chính nhìn thấy nhau giữa một khung trời hoàng hôn tuyệt đẹp nhưng lại không thể chạy ngay đến bên nhau, nhưng dù gì họ đã nhận ra nhau và điều ấy gây thêm niềm hi vọng. Cuộc sống nên có hi vọng và ước mơ…

Truyện ngắn như một cuốn nhật ký cuộc đời của nhân vật tôi. Qua lời tự sự của nhân vật, cuộc đời của anh hiện lên với những điểm nhấn nhỏ nhặt nhưng nhiều xúc cảm. Đầu tiên là tình cảm với cô gái Trâm thời còn học đai học với ký ức về giọng nói kì lạ của anh Khánh. Những rung động xấu hổ khi nhân vật bị người mẫu khỏa thân trêu chọc. Rồi anh lên thành phố đi làm với những mối quen biết mới mới cuộc đời của mình. Cuộc sống của anh cứ bình lặng trôi qua ít biến động và cũng không có gì thú vị. Dường như anh là vị khách qua đường của cuộc sống sôi động này. Chỉ đến khi nhân vật tôi gặp ông cụ bên bờ sông, được nghe ông tâm sự anh mới thay đổi cái nhìn của mình về cuộc đời. Một chiếc bánh bao mà có 2 quả trứng cũng là một bất ngờ mang đến niềm vui nho nhỏ cho ông. Chính thái độ sống tích cực khiến ông nhìn thấy được niềm vui trong chiếc bánh bao đó. Tinh thần lạc quan cũng là nguồn sống giúp ông vượt qua bệnh tật hiểm nghèo. Chính cách nhìn đời của ông lão đã lan tỏa sang nhân vật tôi. Từ ngày gặp ông, anh bỗng thấy cuộc đời mình có ý nghĩa hơn, nhìn thấy nhiều niềm vui hơn. Cuộc đời là như vậy đó các bạn ạ. Cùng một sự vật, hiện tượng nhưng nếu nhìn nhận với thái độ tích cực hay tiêu cực. Chúng ta sẽ thấy sự vật hiện tượng đó không hề giống nhau. Có người giàu sang phú quý, cuộc sống không thiếu thứ gì nhưng vẫn thấy buồn bã. Nhưng có người chỉ cần một bữa cơm ngon bên người thân yêu là thấy hạnh phúc lắm rồi. Đó chính là thái độ sống, tinh thần sống mà con người nên lựa chọn để cuộc sống bình thường của mình yên vui hạnh phúc. (Lời bình của BTV Hoàng Hiệp)

“Chuyện đôi thỏ trắng” kể một câu chuyện tình yêu không thành trong chiến tranh và trên nữa là tình đồng đội của những người đã vào sinh ra tử một thời. Mô tip về chuyện tình yêu không thành trong chiến tranh thì đã quá quen thuộc. Song ở truyện ngắn này tác giả cũng không có ý định đi sâu vào mối tình này trong chiến tranh mà chủ yếu vẫn là câu chuyện của thời hậu chiến. Tâm điểm hay nói cách khác điểm sáng của truyện ngắn này đọng ở đâu ? Đó chính là chi tiết đôi thỏ trắng. Một tình huống bất ngờ xảy ra trong chiến tranh đã kết nối người phụ nữ sau là bà chủ nhà của Thương Thương với người cha của Thương Thương. Tình huống cô gái nuôi quân đã rượt đuổi đôi thỏ trắng ở trong rừng mà suýt rơi vào tay giặc đưa đến sự việc anh bộ đội đã ra tay cứu cô gái, để rồi giữa họ dùng dằng một mối tình không duyên phận. Sau chiến tranh người phụ nữ vẫn nuôi đôi thỏ vì lòng biết ơn, hay để tưởng nhớ về một kỷ niệm đẹp trong chiến tranh. Chi tiết về đôi thỏ trắng giúp họ nhận biết thông tin về nhau mặc dù đôi người đã đôi ngả. Người làm Giám đốc sống nơi thị thành , người chỉ là nông dân, bộ đội phục viên ở quê sống cuộc đời nghèo khó
Người kể đứng ở ngoài quan sát và kể lại một cách khách quan từ đó thấy được tấm lòng nhân hậu của một nữ cựu binh , cảm nhận được tình đồng đội của một thế hệ đã vào sinh ra tử , cảm nhận được tình yêu thủy chung và lòng biết ơn, cũng thấu hiểu hơn nỗi lòng người cha bệnh tật, nghèo khó và nhiều mặc cảm. Nhân vật Thương Thương trở thành cầu nối quá khứ với hiện tai, cầu nối giữa hai con người có tình cảm nhưng cũng đầy khoảng cách khi nghĩ về việc đến với nhau. Cô cũng là đại diện của thế hệ trẻ nhìn về quá khứ của cha ông đi trước mà ngưỡng vọng , cảm phục và thấy cần phải sống tốt, trân trọng và biết ơn. Truyện được viết một cách chân mộc, lối kể tuần tự đôi chỗ cũng không tránh khỏi dông dài. (Lời bình của BTV Tuyết Mai)

Chúng ta có thể thấy thời gian, trình tự các tình tiết, sự việc trong truyện được nhà văn kể đảo lộn một cách hợp lý tài tình. Từ đó tâm trạng nhân vật Olive gây sự chú ý. Thường thì khi người chồng mất, người vợ luôn muốn lưu giữ kỷ vật, kỷ niệm, nhưng có sự không bình thường ở đây, cô vợ Olive lần lượt bán đi hết những món đồ liên quan tới người chồng quá cố. Truyện như một chiếc bánh gói kín nhiều lớp lá cứ lần lượt được bóc từng lớp ra, từ đó sáng rõ dần câu chuyện hôn nhân của họ. Đó là sự cư xử của người chồng coi vợ như vật sở hữu, một thứ nô lệ được yêu chiều. Bi kịch của người vợ đằng sau những chiều chuộng chăm chút của người chồng đó là sự gò bó, mất tự do. Bi kịch được đẩy lên đến cực điểm. Olive giải thoát khỏi sự “tra tấn” đó bằng liều thuốc độc cho chồng, và những kỷ vật như bằng chứng của cuộc hôn nhân đầy tội ác đã được cô đẩy đi, nhưng bất ngờ lại lần lượt trở về bởi bàn tay môt kẻ vô hình.
Truyện tiếp tục được tạo bởi một lớp lang tầng vỉa nữa để rồi lại đẩy lên cao trào đưa tới một thắt nút mới. Sự sợ hãi, kinh hoàng không lý giải được tại sao lại có việc gửi trả lần lượt các kỷ vật vừa bán đi đã ám ảnh, giày vò Olive đến cùng cực. Như vẫn còn đó sự hiện diện của người chồng mặc dù anh ta đã bị cô giết chết. Kết thúc truyện bất ngờ tạo một lớp lang tầng vỉa thứ ba, lý giải hiện tượng có vẻ ma quái, kinh dị về những món quà được gửi trở lại. Thì ra hết sức đơn giản, lão chủ cầm đồ mê Olive đã gửi lại những món đồ và tìm đến gõ cửa để cầu hôn cô. Nhưng Olive đã tắt thở vì quá sợ hãi. Với cái kết này truyện đưa đến thông điệp sau sắc. Sau tội ác gây ra sẽ không bao giờ có được sự thanh thản. Sự trừng phạt sẽ đến từ chính lương tâm kẻ tội đồ. Truyện cho thấy sự tinh tế của nhà văn trong nghê thuật kể chuyện và xây dựng tâm lý nhân vật...(Lời bình của BTV Tuyết Mai)

Nhân vật nữ chính trong câu chuyện chúng ta vừa nghe có những bước đường số phận khá trắc trở, long đong, nhiều sóng gió. Phải làm thiếu phụ không chồng khi tuổi đời còn quá trẻ, sau đó mất mẹ, tính cách cũng ngang bướng, không thông cảm được với bố, quyết định bỏ nhà lên thành phố tự bươn trải. Cô gái đã phải làm đủ mọi nghề để sinh sống, nhưng vẫn có ý thức giữ gìn phẩm giá, có lòng tự trọng, luôn biết ơn và chu đáo với những người đã từng giúp đỡ mình. Cô gái ấy vẫn nuôi ý chí, nghị lực để vươn lên, hoàn thành tốt việc học tập và được nhận bằng giỏi khi tốt nghiệp đại học. Rồi những suy nghĩ, cảm xúc bồng bột của tuổi trẻ cũng qua đi, cô gái quyết định trở về bên bố, về quê hương. Những kiến thức của cô học được từ mái trường Đại học Nông nghiệp sẽ giúp được bao người nông dân, bao gia đình ở làng cô có một cuộc sống tốt hơn. Từ chỗ không mặn mà lắm với người mẹ kế - vợ thứ hai của bố, cô gái đã cảm động và kính trọng bà hơn khi được bà chăm sóc tận tình hàng tháng trời, khi cô vô tình bị ngã xuống hố sâu. Tình cảm từ quê hương và gia đình luôn ấm áp, yêu thương, khiến mỗi con người có ý thức sống tốt hơn, có trách nhiệm hơn với bản thân mình và với mọi người xung quanh. (Lời bình của BTV Đỗ Anh Vũ)
Trong phần đầu truyện ngắn Về nhà của NSND Hoàng Cúc, nhân vật nữ chính của truyện, mà tác giả gọi bằng danh xưng “nó”, đang hồi tưởng về tất cả những ký ức đã qua. Mọi chi tiết như cuốn phim chậm từ từ quay lại. “Nó” sinh con khi tuổi đời còn quá trẻ, lúc sinh con may có mẹ đẻ kề bên hỗ trợ, động viên. Nhưng rồi mẹ đẻ cũng sớm qua đời, bố đi bước nữa, con gái giận bố đã bỏ lên thành phố sinh sống.